Kamis, 31 Oktober 2013

Vấn đáp về tà dâm, thủ dâm

...Vì thế, mỗi lần muốn thủ dâm thì con nên tập tự kềm chế: đứng dậy, không ở một mình, gặp một người khác, tụng kinh, niệm Phật, niệm Quán Âm Bồ tát v.v… cho đến khi dục vọng vơi đi.
Kính xin hỏi Thầy: Hiện giờ trên mạng có rất nhiều người nói tà dâm là gì? Con thật không biết phải hiểu thế nào là tà dâm cho đúng, xin thầy giảng giải.
1)Tội tà dâm chỉ được tính cho những người đã thọ ngũ giới đúng không thầy?
2)Nếu một người (nam hoặc nữ) sống không hạnh phúc, người nam hoặc nữ đã trình bày rõ ràng và muốn ly dị vì sống không còn hạnh phúc nữa, sống chung chỉ làm khổ nhau thêm mà thôi nhưng người còn lại không đồng ý, người nam hoặc nữ đó sau một thời gian đã nói rõ ràng vấn đề chia tay với người kia thì đã có quen và quan hệ tình dục với người bạn tình của mình thì có bị tính là tội tà dâm không thầy? Nếu chưa thọ ngũ giới thì tội này có được tính không?
3) Nếu lỡ phạm tội tà dâm thì có cách nào hóa giải không ạ?
Con xin chân thành cám ơn.
NVA
Đáp:
1) Đúng, tội tà dâm chỉ áp dụng cho những người đã thọ Ngũ Giới. NVA nên biết, quí vị có thể chọn lựa chỉ thọ những giới có thể giữ thôi chứ không cần phải thọ hết thảy Ngũ Giới. Nhất là thời đại này thì rất khó mà giữ giới tà dâm. 
2) Giới tà dâm cấm không được làm chuyện tình dục ngoài hôn nhân, dầu có hay không có hạnh phúc.
3) Có cách để sám hối sau khi phạm giới. NVA nên kiếm một vị tăng, ni có khả năng để xin được giúp. Cách sám hối cần được hướng dẫn kỹ càng. Có thể liên lạc với chúng tôi để hỏi cách sám hối được chỉ dạy có hiệu nghiệm hay không.
Nói chung, thầy ao ước những người xuất gia bỏ thì giờ dạy về Ngũ Giới và cách trì giữ trước khi truyền Ngũ Giới. Như vậy thì sẽ tránh được những phiền toái sau này.
Hỏi: Thưa Thầy, vậy thủ dâm có phải là tà dâm hay là không. Xin thầy hoan hỷ khai thị cho con biết. Con xin cám ơn Thầy!
- Thủ dâm là phạm giới Tà dâm nhẹ nên có thể sám hối được.
Cuộc đời phong phú là do sự giao tế với người khác chứ không phải tìm sự tự thỏa mãn của riêng mình.
Hỏi: Thưa thầy năm nay con 18 tuổi. Mỗi lần con thấy con gái đi ngang qua thì trong đầu con xuất hiện nhưng cảnh tượng quan hệ với người đó. và con thường hay thủ dâm. Đó là con đã phạm dâm giới rồi đúng không thầy. Xin thầy chỉ dạy cho con biết làm cách nào để mình không nghĩ tới nó nữa, Con xin cảm ơn thầy.
- Dần dà sẽ hết thủ dâm nhất sau khi lớn thêm hoặc có đối tượng. Còn trẻ thì khó tránh bị kích thích tố (hormone) dày vò.
Con không nên thọ giới Tà dâm nếu không giữ được. Chưa thọ thì không phạm giới Tà dâm nhưng vẫn phạm giới tự tính. Đại khái vẫn còn sám hối được. Con nên tìm tăng ni hỏi thêm vì thầy không thể tiết lộ trên mạng.
Tốt hơn là nên tránh tự kích thích như coi, nghe, nói những chuyện dâm dục. Hơn nữa môi trường, bạn bè cũng có ảnh hưởng lớn lao nữa.
Con biết không? Thủ dâm chỉ là tự thỏa mãn. Nhưng biết tự trọng hơn mới có thể thật sự biết tôn trọng đối tượng trong tương lai. Người biết tập tự kềm chế thì sau nay mới có thể trung thành với vợ con.
Vì thế, mỗi lần muốn thủ dâm thì con nên tập tự kềm chế: đứng dậy, không ở một mình, gặp một người khác, tụng kinh, niệm Phật, niệm Quán Âm Bồ tát v.v… cho đến khi dục vọng vơi. Nếu nhất quyết không tiếp tục thủ dâm nữa và mỗi lần bị tham dục làm thay vì thủ dâm mà làm gì có ích cho người và đời thì dần dà sẽ tự kềm chế được: xài năng lực (energy) một cách hữu ích hơn.
Tóm lại, tạo thói không tự thỏa mãn (ví dụ tập tự kềm chế bằng cách niệm Qúan Thế Âm Bồ tát cho đến khi không còn sự thúc đẩy) và thường giúp người và đời thì sẽ sớm bỏ thói thủ dâm”.
Hỏi: Thưa Thầy. Con năm nay 20t. Con đã quy y và thọ trì ngũ giới. Tuy nhiên con cảm thấy mình còn trẻ và khó có thể giữ đc cả 5 giới. Nên con muốn bỏ 1 vài giới thì con phải làm sao ạ. Mong Thầy hoan hỉ giải đáp giúp con ạ.
Hỏi: Quan hệ yeu thương một người đãa co gia dinh thi co bi coi la pham ta dam hay khong? Con da tu bo duoc quan he nay, nhung con mong Thay hoan hi chi cho con cach sam hoi de hoa giai toi loi con da pham phai. Con xin cam on Thay.
- Nếu có thọ Ngũ giới thì phạm giới. Nếu chưa thọ thì không phạm giới.
Đã thọ Ngũ giới thì cần tìm tăng ni biết giới luật mà thỉnh pháp sám hối đễ hồi phục lại giới thể.
Thầy không thể trả lời trên mạng vì pháp sám hối này phải đích thân thỉnh mới có thể truyền.
Hỏi: con đã quy y tam bảo, nhưng con có quan hệ tình dục với người yêu của con, không biết như vậy con có phạm tội tà dâm hay không? con phải làm gì nếu có?
- Nếu có thọ Ngũ giới thì phạm giới. Nếu chưa thọ thì không phạm giới.
Đã thọ Ngũ giới thì cần tìm tăng ni biết giới luật mà thỉnh pháp sám hối đễ hồi phục lại giới thể.
Thầy không thể trả lời trên mạng vì pháp sám hối này phải đích thân thỉnh mới có thể truyền.
Hỏi: Xem phim xxx có phải là phạm giới tà dâm không?
- Không phạm tội Tà dâm. Nhưng sẽ phạm tội Tà dâm nếu cứ tiếp tục tự kích thích như vậy.
Tinhdodaithua

Hot girl Thiên Hằng - ngòi nổ mới của showbiz Việt

E lệ trong những bộ đầm hoa, hot girl Thiên Hằng khoe dáng thanh tân với nụ cười duyên dáng. Thiên Hằng có gương mặt baby, ngây thơ và thân hình chuẩn cao 1m70, số đo 3 vòng 84-60-91.

Hot girl này từng tham dự Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2008 và đoạt á khôi 1 Người đẹp thời trang và Top 20 người đẹp cuộc thi. Thiên Hằng đã tham gia một vai diễn nhỏ trong phim truyền hình "Giải mã tình anh" đang phát trên HTV7.
Vai diễn tuy nhỏ nhưng Thiên Hằng thấy đây là một cơ hội để mình học tập nghề diễn và bắt đầu chiến dịch lấn sân sang điện ảnh của cô. Vừa qua Thiên Hằng tham gia một số tập phim trong series phim ngắn "Sống đẹp" phát trong giờ vàng của VTV 1. Hiện, Thiên Hằng cũng đang học kiến trúc ngạch tại chức và thiết kế thời trang.

Mời độc giả ngắm những hình ảnh kiều diễm của Thiên Hằng:






























Con đường giác ngộ theo kinh điển Nikaya

Ðức Phật luôn luôn dạy các đệ tử của Ngài, ngay lúc Ngài còn sống, cũng như trước khi nhập diệt, phải tinh tấn hành thiền, vì chỉ có một con đường duy nhất đưa đến giác ngộ giải thoát đó là hành thiền.
Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi. Ðạo Phật cũng là đạo bình đẳng và tự giác cho tất cả những ai muốn tìm đến con đường hướng thượng của sự giải thoát và giác ngộ. Kinh Pháp Cú có câu: "Người thấm nhuần giáo pháp sống hạnh phúc với tâm an lạc. Hàng trí tuệ luôn luôn hoan hỷ trong giáo pháp mà các bậc thánh nhơn đã tìm ra".
Ngược dòng thời gian để nhìn lại quá khứ, Thái tử Tất-đạt-đa thấy cuộc đời là bể khổ, chúng sanh đang trôi lăn trong vòng sanh sanh, tử tử với cảnh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu não, đang diễn bày trước mắt, do vậy Ngài đã từ bỏ ngai vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con xinh để đi tìm một công án cho chính mình đó là- giải thoát cho tất cả chúng sinh khỏi vòng luân hồi sanh tử. Ngài đã từ giã hoàng cung vào một đêm trăng thanh khi sao mai vừa mới mọc cùng con kiền trắc và Sa-nặc vượt dòng sông A-nô-ma để đi tìm chân lý.
Ðầu tiên Ngài đến học đạo với hai đạo sĩ tên là Alara Kalama và Adduka Ramaputta và đã chứng được hai trạng thái thiền Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhưng Ngài nghĩ rằng hai quả vị này chưa phải là những quả vị tối thượng như Ngài mong muốn. Rồi Ngài từ giã hai vị này để đi tìm chân lý cho công án của chính mình.
Trải qua sáu năm trường tu khổ hạnh, nhưng Ngài vẫn không đạt được kết quả gì:
Sáu năm tầm đạo chốn rừng già
Khổ hạnh ai bằng Ðức Thích Ca
Chim hót trên vai sương phủ áo
Hươu kêu bên núi tuyết đơm hoa.
Sau đó Ngài từ bỏ lối tu khổ hạnh này, trở về với con đường trung đạo. Ngài đến Bodhgaya ngồi nhập định dưới cội Bồà-đề và phát nguyện rằng: "Nếu ta không thành đạo thì dù thịt nát xương tan ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này."
Trong 49 ngày đêm ngồi tham thiền nhập định, Ngài đã chiến đấu với giặc phiền não ở nội tâm như tham, sân, si, mạn nghi và chiến đấu với giặc Thiên ma do Ma vương ba tuần chỉ huy. Sau khi thắng được giặc ở nội tâm và ngoại cảnh, tâm trí được khai thông, Ngài hốt nhiên đại ngộ, chứng được quả vô thượng chánh đẳng chánh giác và trở thành Ðức Phật Thích-ca-mâu-ni.
Ðức Phật vì một đại nguyện lớn lao, vì một lòng từ bi vô bờ bến mà xuất gia tìm đạo. Ðại nguyện và lòng từ bi rộng lớn ấy là: "Cầu thành Phật quả để trên đền đáp bốn ơn sâu, dưới cứu vớt ba đường khổ." Do vậĩy sau khi giác ngộ Ngài không nhập Niết-bàn ngay, mà liền nghĩ đến việc giáo hoá chúng sanh.
Tất cả chúng sanh không phân biệt đẳng cấp, chủng tộc, sang hèn, nếu thực hành theo giáo lý của Ngài ắt sẽ được an vui, giải thoát, tịch tịnh. Sự giải thoát theo đạo Phật không ở đâu xa, mà ngay trong cuộc sống hiện tại này. Con đường giải thoát mà Ngài đã dạy cho chúng ta qua kinh điển Nikàya, đó là Giới, Định và Huệ. Kinh Tứ Niệm Xứ dạy rằng:
"Này các tỳ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ niết bàn, đó là bốn niệm xứ."
Bốn niệm xứ đó là: quán thân trên thân; quán thọ trên các thọ; quán tâm trên tâm và quán pháp trên các pháp
Tứ niệm xứ là pháp môn Chỉ-Quán hay Ðịnh-Tuệ song tu. Nhưng trước khi đi vào thực tập chỉ quán song tu Ngài dạy chúng ta phải giữ gìn giới luật, có trì giữ giới luật thì thân tâm mới trong sạch, nhẹ nhàng để bước vào hành thiền đạt nhiều kết quả tốt đẹp. Giới luật như hàng rào ngăn chặn không cho ngoại ma xâm nhập vào, giữ gìn nội tâm yên tịnh, để đi vào định một cách dễ dàng, do vậy Ðức Phật luôn dạy đệ tử của Ngài phải hành trì giới luật trước khi hành thiền. Ðiều này được đức Phật nói rõ trong bài Ðại Kinh Xóm Ngựa sau đây:
- Phải biết tàm quí trong khi nhận của cúng dường.
- Thân hành, khẩu hành, ý hành, sanh mạng phải được thanh tịnh, minh chánh.
- Phải hộ trì các căn.
- Phải tiết độ trong ăn uống.
- Phải chú tâm cảnh giác.
Sau khi trì giới làm cho thân thanh tịnh, chúng ta lựa một chỗ thanh vắng như thiền đường, gốc cây, khu rừng, hay bất cứ nơi nào thuận tiện và thoải mái cho việc hành thiền, rồi chúng ta ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt, rồi thực hành phương pháp niệm hơi thở vô, hơi thở ra (Anàpànasati). Trong Kinh Một Pháp, Ðức Phật dạy phương pháp niệm hơi thở vô, hơi thở ra với 16 đề mục: bốn đề mục về thân; bốn đề mục về thọ; bốn đề mục về tâm và bốn đệ mục về pháp.
Pháp môn này thuộc về pháp môn Tứ Niệm Xứ (cattàro-satipatthàna), tức là pháp môn đề cập đến bốn chỗ (xứ) để an trú niệm tức là thân, thọ, tâm và pháp. Pháp môn Anàpànasati này đề cập đến 16 đề tài về thân, bốn đề tài về thọ, bốn đề tài về tâm, và bốn đề tài về pháp. Người hành thiền vừa thở vô, vừa thở ra, vừa suy tư quán tưởng trên 16 đề tài liên hệ đến hơi thở.
Pháp môn này cho cả thiền định và trí tuệ, gồm chỉ (samatha) và quán (vipasana). Cả hai chỉ quán đều song tu trong pháp môn này. Khi dùng tầm tứ cột tâm trên hơi thở vô hơi thở ra, như vậy là chỉ, như vậy là định. Khi lấy trí tuệ quán sát 16 đề tài được lựa chọn, như vậy là quán, như vậy là tuệ.
Tu tập thiền chỉ thì có thể chứng được từ sơ thiền đến tứ thiền, rồi từ không vô biên xứ đến phi tưởng phi phi tưởng xứ. Sau đó dùng thiền quán để chứng được diệt thọ tưởng định. Hoặc có thể từ tứ thiền rồi chuyển qua thiền quán để hướng tâm đến túc mạng trí, sanh tử trí, và lậu tận trí. Khi hướng tâm đến lậu tận trí vị ấy biết như thật: "Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là con đường đưa đến khổ diệt, đây là những lậu hoặc, đây là nguyên nhân của lậu hoặc, đây là các lậu hoặc diệt, đây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt. Nhờ vậy vị ấy thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu... vị ấy biết sanh đã tận phạm hạnh đã thành việc cần làm đã làm; không có trở lui đời sống này nữa". Vì thế cho nên thiền quán đóng một vai trò rất quan trọng trong tiến trình đưa đến giải thoát.
Nhìn vào cuộc sống sau khi thành đạo của đức Từ phụ chúng ta thấy, nếp sống hằng ngày của Ngài có hai việc chính là thuyết pháp và hành thiền. Ngài là vị chánh đẳng chánh giác, là bậc được thế nhân tôn sùng, kính lễ, nhưng Ngài vẫn hành thiền mỗi ngày, đó là vì Ngài muốn làm gương để sách tấn chư đệ tử của Ngài phải luôn tinh tấn hành thiền. Chúng ta thường gặp hai lời khuyên của Ðức Phật cho các tỳ-kheo xuất gia: "Này các tỳ-kheo, khi các người hội họp lại thường có hai việc phải làm: một là đàm luận về phật pháp, hai là giữ im lặng của bậc thánh". Sự im lặng của bậc thánh ở đây là hành thiền.
Lời dạy thứ hai là lời khuyên hành thiền của Ðức Phật: "Này các tỳ-kheo, đây là gốc cây, đây là những căn nhà trống, này các tỳ-kheo, hãy tu thiền, chớ có phóng dật, chớ có sanh lòng hối hận về sau. Ðây là lời giáo huấn của Ta cho các ngươi." Và khi sắp nhập Niết-bàn, Ðức Phật nhắc đi nhắc lại nếp sống của một tỳ-kheo tối thắng là tu thiền định, thiền quán.
"Này Anada, ở đời, vị tỷ kheo, đối với thân quán thân, tinh tấn,tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời, đối với các cảm thọ ... đối với tâm ... đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời. Này, Anada, như vậy vị tỳ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một vật gì khác."
Ðức Phật luôn luôn dạy các đệ tử của Ngài, ngay lúc Ngài còn sống, cũng như trước khi nhập diệt, phải tinh tấn hành thiền, vì chỉ có một con đường duy nhất đưa đến giác ngộ giải thoát đó là hành thiền.
Như chúng ta thấy bậc Ðạo Sư của chúng ta trước khi thành đạo, Ngài đã có nhiều kinh nghiệm về thiền như vậy và đã tự mình khám phá ra con đường giới định tuệ đưa đến giác ngộ giải thoát, cho đến khi thành đạo và ngay cả trước khi Niết bàn Ngài cũng hành thiền định. Trong suốt 45 năm sau khi thành đạo Ngài thuyết pháp, hành thiền và dạy đệ tử hành thiền, những bài thuyết pháp của Ngài đều nhấn mạnh về thiền.
Chúng ta là những người hậu học, đang trên đường tu tập, để nối bước theo dấu chân Ngài, chúng ta phải tinh tấn thiền định, nhưng trước khi thiền định phải giữ gìn giới luật nghiêm minh, vì có giới mới đi vào định được, khi định được viên mãn thì trí tuệ phát sanh. Trí tuệ là lưỡi gươm sắc bén nhất, có thể cắt đứt được tận gốc rễ của phiền não, tham, sân, si, mạn, nghi, giống như cây Tala một khi bị cắt đứt ngọn thì không thể mọc lên được nữa. Khi các kiết sử được đoạn tận gốc rễ, chúng ta mới được an vui, giải thoát. Sự an vui giải thoát này không ở đâu xa, mà chính ở ngay trong cuộc sống này.
Vì thế cho nên, tất cả chúng ta, giờ giờ, khắc khắc phải tinh tấn tu học, thực hành Tam vô lậu học (giới-định-tuệ). Vì đó là con đường duy nhất đưa chúng ta đến cõi an vui, giải thoát, tịch diệt, và Niết-bàn.
ST

Tám điều giác ngộ bậc đại nhân: điều giác ngộ số 3

Các bậc đại nhân nói chính những vọng động nó dắt chúng ta vào thế đồ, vào luân hồi sinh tử.
Chính vọng tưởng đã làm chúng ta trôi lăn từ đời này qua bao kiếp khác, thương nhớ buồn vui khổ đau cứ chất chồng lên tâm thức khiến chúng sanh lao lự, điên đảo không có một phút an vui.
Chánh văn: 
 弟三覺知 
心 無 厭 足
唯 得 多 求
增 長 罪 惡
菩 薩 不 爾
常 念 知 足
安 貧 守 道
唯 慧 是 業 
Âm:
Đệ tam giác tri,
Tâm vô yểm túc,
Duy đắc đa cầu,
Tăng trưởng tội ác,
Bồ-tát bất nhĩ,
Thường niệm tri túc,
An bần thủ đạo,
Duy tuệ thị nghiệp. 
Dịch:
Giác ngộ thứ ba,
Tâm không biết đủ,
Chỉ thích cầu nhiều,
Tăng trưởng tội ác,
Bồ-tát không thế,
Thường nhớ biết đủ,
Giữ đạo vui nghèo,
Trí tuệ sự nghiệp.
Giảng:
Thứ ba là giác ngộ rằng tâm ta không bao giờ biết chán đối với dục lạc, luôn muốn được nhiều, vì vậy tội ác tăng trưởng. Bậc Bồ-tát thì không như thế, các ngài luôn nghĩ biết đủ, sống an vui thanh đạm để hành đạo, lấy trí tuệ làm sự nghiệp của mình.
Những năm đầu theo Thầy lên núi tu hành, huynh đệ chúng tôi chỉ có khoảng mười người. Nhưng mỗi người là một vũ trụ, một phương trời, không ai giống ai hết. Hôm nào anh em cùng ngồi bên nhau bàn luận về một vấn đề, cuối cùng chẳng có ý kiến nào trùng hợp ý kiến nào. Nếu có trùng hợp là do người chịu trách nhiệm chủ trì khéo léo hướng dẫn huynh đệ cùng hướng về một điểm, cùng tiến, cùng đồng lòng; bằng không sẽ phân ngả mỗi người mỗi hướng khác nhau. Đã xuất gia sống đời lục hòa, chúng ta phải có điểm chung với nhau. Cho nên các vị lãnh đạo thường nói đại chúng phải hỗ tương, giúp đỡ nhau cùng tu tiến.
Hòa thượng Trúc Lâm dạy tìm sự hoan hỷ bằng cách buông bỏ hết những cái riêng tư. Nếu chúng ta dốc lực buông bỏ hết thì có điểm gặp nhau. Đây là hướng tu thiền. Nếu trong tâm còn những vướng mắc chấp chặt, thì nhất định không làm sao huynh đệ sống hòa hợp được. Nhờ cuộc sống lục hòa cộng trụ nên con đường chúng ta đi thông thoáng, vui vẻ thẳng tiến. Hồi trước tôi có người huynh đệ tu và làm việc rất giỏi nhưng có một điểm không giống ai hết. Mỗi chiều khi thấy hoàng hôn xuống, huynh nói nhớ nhà quá, không muốn ở chùa nữa. Tôi lấy làm ngạc nhiên sao huynh này lạ vậy, sáng muốn tu, chiều lại muốn về nhà!
Tu giỏi nhưng còn vướng mắc gia đình nên không có niềm vui. Và một khi có ý bỏ cuộc thì cuối cùng bỏ cuộc thật. Con người một nắng mười mưa, bước tới một bước, bước lùi hai ba bước, rồi đứng lại nghỉ mát, đi như vậy biết chừng nào tới đích. Đó là vấn đề chung quanh cuộc sống của chúng ta. Vậy thì nên buông bỏ cái gì và khi buông bỏ hết rồi chúng ta còn cái gì để sống. Có người hỏi Hòa thượng Trúc Lâm:
- Buông bỏ hết, con còn cái gì?
Hòa thượng đáp:
- Buông đi, bỏ đi. Bỏ hết thử xem còn cái gì.
Đây là bệnh của một số người chưa dám buông bỏ hết, sợ không còn cái gì để bám. Một lần tôi theo Hòa thượng về quê, đến chùa Phật Quang phải qua một đoạn đường, phía trước là sông lớn. Dọc bên sông là dãy nhà của dân, sau dãy nhà có rất nhiều con rạch. Qua rạch bằng những cầu cây gòn hoặc cây cau không tay vịn. Bước sang cầu là ruộng. Ruộng miền đó, mùa nước không chỗ nào đặt chân xuống mà không bị lún sình. Người nào sợ phần nhiều bị rớt, những người đi một cách tự nhiên thì qua được. Chính bản thân tôi khi tới đầu cầu phải đứng lại. Hòa thượng nói “Chùn bước rồi hả chú?” Tôi nghĩ trong bụng mình cũng dân quê, có cây cầu thôi làm gì phải chùn bước, nên đi tiếp và qua được bên kia. Đó là kinh nghiệm và cũng là một bài pháp để chúng ta ứng dụng vào đời tu của mình.
Khi mới vào đạo nghe quý thầy nói con đường tu hành rất xa xôi vất vả, nếu tu theo Tịnh Độ thì từ đây qua thế giới Cực Lạc của đức Phật A-di-đà mười muôn ức cõi nước. Tôi tự hỏi đi bằng phương tiện gì, đi làm sao mà tới được? Qua trải nghiệm trong cuộc đời, chúng ta tu hành thấy khó nhưng nếu quyết tâm và niềm tin vững chắc thì sẽ đến nơi. Tin chắc điều gì? Tin chắc chúng ta mặc đồ tu, có rớt xuống mương leo lên giặt cũng dễ. Có niềm tin thì khó khăn sẽ không còn cản trở được bước chân của chúng ta. Nhìn vào gương của những người xưa, cộng với phúc duyên của mỗi người thì không còn khó khăn nào làm mình ngán sợ.
Có người than với tôi: “Con tu nhiều năm mà vẫn không nhận ra được Phật pháp để hành trì”. Câu này nếu gặp thiền sư, ngài sẽ nói: “May mắn đó con.” Chúng ta chưa nhận ra được chân tâm, chưa thật sống với bản thể nên vẫn còn những va chạm làm buồn lòng nhau. Chỉ khi nào chúng ta quyết tâm buông bỏ, nhất định sẽ có những bước tiến rõ rệt. Phật dạy tâm suy nghĩ vẩn vơ là giả, mọi thứ xung quanh cũng không thật, nhưng sao chúng sanh bỏ rất khó. Việc tu hành tuy có những khó khăn tưởng chừng không vượt qua được, nhưng cuối cùng chúng ta đã định hướng, đã quyết tâm thì nhất định sẽ vượt qua và khắc phục, không có gì khó khăn.
Chỉ cần một chữ buông mà chúng ta có thể sống đời nhàn hạ, chỉ cần một chữ buông chúng ta có thể sống đời hòa hợp thương yêu. Nhưng buông cái gì? Hòa thượng dạy: "Sáng nay ngồi thiền chú thấy cái gì ló lên thì buông bỏ nó đi, chiều ngồi thiền cái hồi sáng nó không ló lên nữa đâu, có cái gì khác thì chú cũng buông bỏ tiếp". Một năm ở trong thiền viện không biết mấy ngàn vạn lần hình ảnh, số lượng nhiều như vậy, trong kinh ví như số cát sông Hằng. Chúng ta đã dẫm chân vướng mắc trong cuộc đời này, nếu không buông bỏ thì chắc chắn trong lòng đầy ắp những chuyện không đâu nên không yên. Vậy thì chúng ta cố gắng buông bỏ cho được, buông bỏ được nhất định niềm vui sẽ giúp chúng ta tu tiến.
Trong điều giác ngộ này, trước tiên là nói đến “Tâm vô yểm túc”. Do vì chúng ta chưa nhận được chân tâm nên những vọng động về quá khứ, mơ ước tương lai nhiều vô kể, bởi nhiều nên tu không yên ổn. Chính vọng tưởng đã làm chúng ta trôi lăn từ đời này qua bao kiếp khác, thương nhớ buồn vui khổ đau cứ chất chồng lên tâm thức khiến chúng sanh lao lự, điên đảo không có một phút an vui. Có những vị đã xuất gia rất lâu, đã thọ giới cụ túc mà chưa nhận được tâm chân thật, cho nên cứ lo gom giữ, dính mắc, muốn buông không buông được. Chỉ bao giờ người nhận ra được tâm thật của mình, thấy mọi thứ bên ngoài đều là giả, lúc đó chúng ta mới thật sự không còn bám víu vào dục lạc bên ngoài.
Nhưng làm cách nào để nhận ra tâm chân thật của chính mình? Hòa thượng dạy muốn nhận được chân tâm thì phải ngồi thiền. Như trong đống rác có nhiều thứ, chúng ta phải loại hết các thứ tạp nhạp ra để tìm cái mình cần. Như người chăn trâu, trâu bỏ đi hoang không thấy bóng dáng của nó thì phải đi tìm. Chân tâm là cái rỗng rang sáng suốt, muốn thấy được tâm thật thì trong lòng đừng dính mắc cái gì khác. Giả tỷ chúng ta đang nghiêm chỉnh ngồi đọc sách, chợt nghe có nhiều người nói chuyện lớn tiếng, tai mình bắt đầu nghe ngóng xem người ta nói chuyện gì, nếu có tên mình thì chúng ta liền nhảy ra để tham gia. Bao giờ còn lanh lợi, khôn ngoan thì tâm lăng xăng quấy động, chưa có hướng quay lại sống và nhận được chân tâm của mình.
Ví như trong nhà có sáu cửa, bên trong có con khỉ kêu choé choé, ở ngoài cũng có con khỉ kêu choé choé. Con khỉ ngoài kêu choé choé thì con khỉ bên trong cũng kêu choé choé. Cuộc sống chúng ta cũng như vậy, trầm luân trôi giạt nhiều đời nhiều kiếp, bởi con khỉ bên trong quá lanh lợi khôn ngoan, rồi con khỉ bên ngoài lại khỏe mạnh phi thường. Hai con cứ như thế mà trao đổi, dẫn chúng ta băng rừng lội suối, lên trời xuống bể bao nhiêu đời kiếp. Bây giờ được thiền sư nói cho nghe rằng: - Ông ơi! Hãy để con khỉ ở trong chết đi. Chỉ cần con khỉ bên trong chết thì tâm được rỗng rang sáng suốt. Chúng ta đừng mong con khỉ bên ngoài chết, vì nếu con này chết thì có con khỉ khác còn lanh hơn. Thôi thì con khỉ nào bên ngoài cũng được, miễn con khỉ bên trong chết là yên, đất nước thái bình, chiến tranh can qua không còn nữa. Lúc đó hành giả mới thật sự sống được với chân tâm, trở về với chánh pháp. Nếu không thì chúng ta cứ lao theo bên ngoài, vọng động nổi chìm trong sinh tử triền miên.
Chúng ta phải làm sao quán chiếu bỏ hết, đó là biết thương mình, biết tri túc. Biết thương mình là sao? Như vừa rồi chúng ta đi khám bệnh, Bác sĩ nói cơ thể ông tốt lắm; gan, lá lách, phèo, phổi… có thể sống được một trăm tuổi. Bây giờ chúng ta trên bảy mươi tuổi rồi, khoảng thời gian còn lại không nhiều nên phải bỏ hết những lăng xăng, những vướng mắc đang làm chúng ta mệt nhoài đảo điên đây. Vì vậy đối với các bậc Bồ-tát thì: “An bần thủ đạo”, ngày nào còn sống là còn tu, giờ nào còn sống là còn tu, phải lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Bác sĩ nói là một trăm tuổi chứ không chắc được vì tai họa đủ thứ, do muốn lấy lòng nên Bác sĩ nói cho mình mừng chơi thôi, chứ một hơi thở ra mà không hít vào là ngủm.
Chúng sanh lúc nào cũng tham sống sợ chết, thích sống cho lâu, nắm bắt cho nhiều, tạo nghiệp cho dữ, để rồi tội ác cũng theo đó phát sinh. Trầm thống cũng từ đây mà phát nguồn, đi khắp các nẻo tử sinh lăn qua lộn lại đủ thứ hình trạng chỉ vì chẳng bao giờ biết đủ. Ngược lại, đối với các bậc Bồ-tát thấy được lẽ thật của các pháp, biết nó là vô thường giả có. Sống đời thanh đạm để phát huy đạo nghiệp, lấy trí tuệ làm tiêu điểm, Phật gọi đó là bậc Đại nhân.
Tôi có một định hướng, xin chia sẻ để huynh đệ nắm bắt và ổn định tâm tư, nguyện vọng mà yên lòng tu tập. Hòa thượng Ân sư của chúng ta từng dạy ngay trong đời này, trước nhất là làm sao chúng ta giải quyết được vấn đề sinh tử. Muốn giải quyết được việc lớn đó phải thật sự an ổn, yên lòng tu tập, buông bỏ không chạy theo vọng tưởng, không lầm nhận vọng tưởng. Một niềm vinh dự vô cùng lớn lao là Phật Tổ, các bậc thầy đều dạy mỗi người chúng ta có sẵn trí tuệ đức tướng Như Lai. Vì vậy nếu chúng ta biết tri túc, đừng tham cầu những cái huyễn giả, thì sẽ gần gũi sống và phát huy được trí tuệ chân thật của chính mình.
Chính đây là điểm mà các vị thiền sư thời Trần nhắn gởi người sau: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”. Ngay nơi chúng ta có đủ hết không thiếu thứ gì. Các vua Trần như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông… đang ở tột đỉnh uy quyền, vinh quang nhưng các ngài biết nó đều không thật, nên bỏ đi để bước vào cuộc sống đạo, gầy dựng cái thật cho chính mình.
Vua Trần Nhân Tông hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ việc bổn phận tông chỉ, Tuệ Trung dạy rất giản dị “phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”, soi sáng lại chính mình là việc chính, không từ ngoài mà được, không thêm gì hết. Đối với vua, giang sơn xã tắc, bá tánh muôn dân là tất cả của vua, nhưng khi chỉ thẳng tông chỉ, Tuệ Trung Thượng Sĩ khuyên vua nên soi sáng lại chính mình là bổn phận, không từ người khác mà được. Từ đó vua bỏ tất cả, lên núi Yên Tử tu. Đọc vào những trang sử thiền, chúng ta thấy hành trạng của chư vị Tổ sư, các bậc thầy đã tu chứng đi trước, không có vị nào dạy chúng ta phải thêm cái gì khác, chỉ đừng dính mắc vào trần cảnh bên ngoài. Điều này rất thực tế.
Giả như huynh đệ nào đó nghĩ ngợi không biết mình tu tới cùng hay không, có chuyện gì xảy đến với mình không? Chúng ta không cần thiết phải nghĩ xa như vậy. Ngay bây giờ nếu ta đừng chạy theo những âm thanh, như ở đây có tiếng cưa, tiếng cắt, tiếng ồn ào bên ngoài nó hú, nó ré đủ thứ… chúng ta vẫn nghe nhưng không chạy theo nó, nếu được như vậy thì thật sự rất an ổn. Đây là điều thực nghiệm chứ không phải lý thuyết suông. Ngay nơi đây chúng ta buông hết những vọng niệm, đừng chạy theo cảnh bên ngoài, hằng biết hằng nghe thì an vui sẽ có mặt. Nếu huynh đệ nào hữu duyên cảm nhận được lẽ thật đó thì cuộc sống sẽ thênh thang, vui vẻ, không có gì bên ngoài sánh bằng.
Nếu như Bác sĩ ấn định, chúng ta còn sống hai mươi hay ba mươi năm, đó là giả thuyết thôi. Phật đã dạy mạng người chỉ là hơi thở, Hòa thượng Trúc Lâm từng khuyên tu hành, làm sao phải đảm bảo nâng nó đến mức độ xem như hơi thở, không nên chạy theo dính mắc một vấn đề gì ở bên ngoài. Công phu như là hơi thở, nếu chúng ta không làm được việc đó xem như là chết. Như vậy khi chúng ta nhận được lẽ thật thì sẽ có cách bảo vệ công phu tu hành. Nhận ra như thế nào là tùy theo từng nhân duyên mỗi vị, nhận thì không khác, khi nó hiển lộ rồi thì không còn ngược xuôi nữa, sự thật như nhiên. Một khi thật sự sống được với cái chân thật, huynh đệ lúc nào cũng an vui, sự tu mỗi ngày càng tăng tiến rõ. Từ đó chúng ta cố gắng nâng đỡ dìu dẫn nhau, cùng hỗ trợ trong tinh thần lục hòa để lý tưởng mỗi người được thăng hoa.
Như vậy chúng ta muốn tu hành được tiến bộ, trí tuệ hiện bày, thì phải làm sao? Trí tuệ chúng ta đã có sẵn nhưng chưa phát triển, vì bị những thứ bên ngoài chi phối, giờ làm sao cho trí tuệ phát triển, đó là việc chính của mỗi người. Chúng ta sống làm sao cho thật an ổn, không để bất cứ chuyện gì làm trở ngại tâm Bồ-đề. Chuyện buồn vui, mắc míu, liên hệ gì đó chúng ta phải tháo, chặt đứt, thì tâm chân thật mới hiện bày, gọi là “Chân tâm vô niệm”. “Chân tâm vô niệm” thì không buồn vui, không lo lắng, tất cả đều là Phật Pháp, đó là tâm thể, là Như Lai tự tánh, là chủ nhân ông… Ngay đây mỗi người tự nhận và sống lấy.
Mục đích người tu là gì? Là phải tìm cho mình vốn sống và phát huy vốn sống đó. Giả như trong cuộc sống hằng ngày đây, có một huynh đệ cố gắng tu hành nhưng trong một ngày lại vướng phải vài lần khởi niệm hơi bực bực. Lúc đó chúng ta phải làm sao? Không cần biết phải bực ai, vì sao bực? Chúng ta chỉ cần sống trở về với cái thật của mình thì nỗi bực tức sẽ bớt, đến một lúc nào đó tâm nhẹ nhàng, dường như không còn nỗi bực đó nữa. Như vậy khi biết sống trở về với lẽ thật thì muộn phiền đã vơi, đã đi xa, không còn dính dáng hay tiếp cận với chúng ta. Phát huy được sức sống nội tại rồi hành giả có thể nói thiền hay viết những đoạn văn dài miêu tả những sự kiện về niềm vui chân thật đó.
Như hồi xưa trên bàn Quá đường chúng ta thấy có người đi qua cầm khánh hay chuông gì đó mình cảm thấy bực, nói làm cái chuyện cũ xì; bây giờ cũng thấy vậy nhưng không còn thấy bực nữa, chúng ta vẫn yên lòng làm chuyện của mình. Hòa thượng thường nói chúng ta thích làm cảnh sát quốc tế, hay kiểm tra thiên hạ lắm, không chịu nhìn lại chính mình để sửa, mà nhìn thiên hạ rồi phê phán lên án. Bây giờ nhận được chỗ sống rồi, phải biết mình, đừng mắc míu chuyện bên ngoài. Một điểm này thôi chúng ta có thể làm chủ cuộc đời và sống an lạc.
Ngay trong đống rác tìm thấy báu vật, ngay nơi thân ngũ uẩn nhận sống trở lại bản tâm trong sáng của chính mình, chúng ta không nên tìm ở đâu khác. Ngay nơi thân bệnh hoạn này, ngay nơi điều kiện còn quá nhiều cây cảnh, đất đai sình lầy này chúng ta tìm được an lạc. Niết-bàn thật sự có ở đây và ngay trong lòng mình. Phát huy được trí chân thật rồi thì có thể nói hai mươi năm, ba mươi năm, đời này, đời khác, từ đây cho đến ngày thành Phật thời gian không còn giới hạn. Trong tíc tắc chúng ta nhận được điềm báo đặc biệt đó, không phải đợi hoa Linh Thoại một ngàn năm sau mới nở mà ngay bây giờ một vị Phật đang có mặt ở đời. Đại chúng có tin điều đó không? Nếu thật sự không cảm nhận được lẽ thật đó thì việc làm hiện tại của chúng ta không có ý nghĩa gì.
Tại sao chúng ta ăn cơm phải ngồi ngay đơ cứng ngắc? Tại sao phải tụng Bát-nhã hết thời này cho đến thời khác? Tam tạng kinh điển chất tủ này đến tủ kia, mà sao cứ chọn Bát-nhã tụng hoài. Trời đất mênh mông, tại sao đi không được ngó bên này bên kia mà phải nhìn thẳng? Tại sao? Tại sao? v.v… Người tu có nhiều phi lý quá, nhưng đại chúng cứ yên lòng sống. Đối với pháp môn đang tu tập cộng với điều kiện nhân duyên này, chúng ta sẽ nhận ra được chính mình, sẽ có niềm tin trong công phu hành thiền. Lúc 10 giờ 45 phút đánh kẻng thọ trai, chúng ta cứ đi thọ trai, đừng hỏi tại sao phải đánh kẻng, tại sao phải thọ trai. Không có tại gì hết. Những buổi chiều mát mẻ, năm ba huynh đệ đi lòng vòng ngắm chỗ này ngó chỗ kia vui thích, mắc mớ gì tới 6 giờ phải đánh chuông đánh bảng đi tụng sám hối? Phải chi tụng kinh gì mới, ba bốn tháng nay cứ tụng đi tụng lại “chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, bấy nhiêu đó làm hoài? Thật sự có khi chúng ta thấy bức xúc chứ. Nhưng đến một lúc nào đó… “À!” Không có gì bức xúc cả, tụng thì cứ tụng. Hương đăng chịu trách nhiệm đánh kẻng thì cứ đánh, đúng 6 giờ mới đánh nha, cô đừng có đánh trước mà cũng đừng có đánh sau 6 giờ để bị rầy. Một khi chúng ta thấy được ý nghĩa vô cùng giản dị này thì làm việc gì cũng có ý nghĩa. Ăn cơm, học hành, đi lại, mọi thứ đều có ý nghĩa. Ngược lại, chúng ta thấy sao nó phi lý vô nghĩa quá, tụng hoài chỉ có bấy nhiêu đó thì ma mị vọng tưởng dẫn mình đi không biết đến đâu.
Ở đây nói “Tâm vô yểm túc”, yểm túc là gì? Yểm là chán, túc là đủ. Không bao giờ biết chán, không bao giờ biết đủ. Trong đời sống này nếu không có Phật pháp, không gặp bậc thầy sáng thì chúng ta cứ lao ra, chạy theo, dính vào các trần cảnh. Các bậc đại nhân nói chính những vọng động nó dắt chúng ta vào thế đồ, vào luân hồi sinh tử. Chúng ta may mắn gặp được Phật pháp, hữu duyên nhận và sống được “quá an ổn”. Nhưng chúng ta đừng la lên tôi quá an ổn, la lên người ta nói mình điên đó. Quá an ổn, quá khỏe, sung sướng rồi nhưng đừng nói gì hết. Cô hương đăng cứ làm hương đăng, cô làm rẫy tưới cây thì cứ làm rẫy tưới cây. Quê hương này quá yên ổn, sinh hoạt tu học nơi đây quá vui, chứ không phải quá buồn.
Qua điều giác ngộ thứ ba của bậc đại nhân mở cho chúng ta hướng tiến là quay về nhận lại trí tuệ bản hữu của chính mình. Vất bỏ hết những gì mà lâu nay chúng ta ôm đồm, toan tính thì sẽ được giác ngộ. Giác ngộ thì trí tuệ sẽ tăng trưởng. Mong rằng đại chúng trí tuệ lúc nào cũng tăng trưởng, lúc nào trên gương mặt cũng rạng ngời niềm vui. Đây là những đứa con gái lành, con trai lành của đức Phật đã không còn bị lầm chạy ra bên ngoài nữa, nhận và sống được với tâm thể của mình, trí tuệ luôn tròn đầy. Thời gian viên mãn không cần phải nói, không hai mươi năm, ba mươi năm gì hết, mà ngay đây bây giờ tức thì viên mãn.
Đó là hạnh nguyện phát tâm cầu đạo, hành đạo và cũng là chỗ viên thành Phật đạo của chúng ta. Tam bảo gia hộ nhất định tất cả chúng ta sẽ thực hiện tâm nguyện của mình thành công viên mãn.
Thích Nhật Quang

Ăn chay và ăn mặn

Như ăn chay suốt đời
Nhưng tâm không thanh tịnh
Không hiểu biết Chánh Pháp
Khác chi bò ăn cỏ.
Ðiều quan trọng trong đạo Phật chính là: Tâm trí có dính mắc hay không dính mắc cảnh trần. Nếu tâm dính mắc, gọi là tâm phan duyên, tâm loạn động. Nếu tâm không dính mắc, chính là tâm thanh tịnh vậy.
Trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, vấn đề mọi người thường lưu tâm hàng đầu chính là việc ăn uống. Nếu con người không cần phải ăn uống, chắc là trên đời không có chuyện đấu tranh giành giựt, không có chiến tranh xâm lăng, vì quyền lợi của dân tộc mạnh, cuộc sống của nhân loại sẽ thái bình, an ninh, vui tươi, hạnh phúc. Ðó là phạm vi chung của nhân loại. Riêng trong đạo Phật, cũng việc ăn uống, có một vấn đề, nội dung phức tạp, thường gây thắc mắc, tranh luận đúng sai, nên hay không nên, cho khá nhiều người. Ðó là: Ăn Mặn và Ăn Chay. Ăn mặn là từ ngữ chỉ việc ăn uống thông thường, bình thường, thường nhựt của bất cứ người nào trên thế gian, không quan hệ với bất cứ phong tục, tập quán, hay tín ngưỡng nào. Nói một cách khác: Ăn mặn có nghĩa là ăn tất cả các loại thực phẩm có thể ăn được, trên trái đất này, bao gồm thịt động vật, trứng, sữa, và các loại thực vật, rau cải trái cây.
Ăn chay là từ ngữ có nhiều nghĩa khác nhau, tùy theo phong tục, tập quán, hay tín ngưỡng. Có nhiều nơi, ăn chay có nghĩa là: không ăn thịt heo, hay cữ thịt bò. Có nhiều nơi, ăn chay có nghĩa là: không ăn các loại thịt động vật, sống trên mặt đất, nhưng có thể ăn các loại sinh vật, sống ở dưới nước. Ăn chay có hai lý do chính: Một là, vì lý do phong tục, tập quán, hay tín ngưỡng; hai là, vì lý do sức khỏe. Trong phạm vi đạo Phật, nói một cách đơn giản, ăn chay có nghĩa là: ăn tất cả các thức ăn, thực phẩm không có liên quan đến mạng sống của chúng sinh. Bài viết này có mục đích tìm hiểu vấn đề ăn mặn và ăn chay, trong phạm vi đạo Phật, mà thôi.
Theo các nhà dinh dưỡng học, muốn có một cuộc sống đầy đủ sức khỏe, muốn có đủ năng lực hoạt động trong cuộc đời, chúng ta phải lưu tâm đến việc ăn uống điều độ, và đầy đủ chất dinh dưỡng. Sách có câu: “Tinh thần minh mẩn trong thân thể tráng kiện“. Chúng ta thường được chỉ dẫn, nên theo một chế độ ăn uống thích hợp, với bao nhiêu phân lượng chất đạm, chất xơ, chất bột, chất béo, chất ngọt, chất khoáng, chất vôi, chất sắt, chất nước, và các loại sinh tố, trong một ngày, để cơ thể có đủ năng lượng hoạt động, một cách tốt đẹp, và sống lâu trăm tuổi, một cách khỏe mạnh. Theo các báo cáo khoa học, rau cải, ngũ cốc, hoa quả, thực vật, cũng đầy đủ chất dinh dưỡng cho sức khỏe, cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày, trong đời sống của con người. Các người ăn chay vẫn sống khỏe sống thọ, không khác những người ăn mặn. Trong số các thú vật, như con voi, con tê giác, con trâu, con bò, con ngựa, là những con thú ăn thực vật, thảo mộc, nhưng rất khỏe mạnh, không khác các loài thú ăn thịt sống, như sư tử, cọp, gấu, beo. Ăn chay còn có ích lợi cho sức khỏe, như dễ tiêu hóa hơn, ít gây bệnh tật hơn. Trên thế giới ngày nay, tây phương cũng như đông phương, số người ăn chay, vì lý do sức khỏe, ngày càng nhiều hơn, theo khuyến khích của giới y sĩ, và số người ăn chay, vì lý do tín ngưỡng, cũng gia tăng nhiều hơn.
Những người phát tâm ăn chay, vì lòng từ bi, không cứ phải là người theo đạo Phật, thường cảm thấy an vui lợi lạc, và nhẹ nhàng hơn, dễ cảm thông với các loài sinh vật khác, và yêu mến thiên nhiên hơn, cảm nhận được vũ trụ vạn vật đều đồng nhứt thể. Những người ăn chay, vì lý do sức khỏe, cũng như lý do tâm linh, thường hiền lành hơn, ít náo động hơn, tâm tánh dễ dãi hơn, nhưng vẫn sinh hoạt bình thường, như bao nhiêu người khác. Những người chung quanh thường cảm thấy an tâm hơn, khi sống gần gũi người ăn chay. Những con thú chỉ ăn thực vật thảo mộc, không bao giờ sát hại các sinh vật khác, không gây sợ hãi cho các loài vật sống gần bên. Tại sao chúng ta nên ăn chay? Như trên chúng ta đã biết, ngoài những ích lợi về phương diện sức khỏe thể chất, ăn chay trong đạo Phật có mục đích cốt yếu là: “Tránh nghiệp sát sinh và trưởng dưỡng tâm từ bi“. Chứ không phải ăn chay để được thành Phật, để đạt Niết bàn, rước lên thiên đàng, chết về tây phương! Càng không phải ăn chay để đem khoe khoang, khắp cả xóm làng, rằng mình từ bi không ai bằng, rủa xả dè bỉu, phỉ báng tàn mạt những người chưa biết tại sao nên ăn chay, hoặc những người chưa thể ăn chay vì nhiều lý do khác nhau. Con người có trí tuệ đến với đạo Phật vì Chánh Pháp vi diệu thậm thâm, có thể giúp đỡ con người giác ngộ, thoát ly sanh tử luân hồi, thanh tịnh hóa tâm trí, thân an tâm lạc, đạt được cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời, chứ không phải đạo Phật đơn thuần chỉ là đạo ăn chay.
Thực vậy, vì con người không có tâm từ bi thực sự, con người còn ám hại con người, con người còn ganh tỵ đố kị con người, con người còn muốn thấy người khác đọa địa ngục vì không theo tôn giáo mình, không cùng môn phái, không cùng pháp tu, không đồng quan điểm với mình về một vấn đề nào đó, làm sao có thể biết nghĩ đến việc ban vui cứu khổ muôn loài. Thói thường, kẻ mạnh hiếp đáp kẻ yếu, người có thế lực chèn ép người cô thế, kẻ giàu tiền lắm của đàn áp người nghèo khó khốn cùng, cá lớn nuốt cá bé, lấy thịt đè người, khinh người sơ cơ, nằm mơ cực lạc, xuyên tạc người hiền, làm tiền đồng đạo, làm sao thế gian này có hòa bình, an vui, lợi lạc cho được. Người tự nguyện phát tâm ăn chay là người có tâm từ bi vô lượng, coi muôn loài như bản thân mình, không thích giết hại một sinh vật nào, không muốn nhìn thấy một sinh vật nào đau khổ, để thỏa mãn dục vọng của con người. Ăn chay còn giúp cho các sinh vật, thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng, sống bị giam cầm khốn khổ, đầy đọa trong địa ngục trần gian, chờ ngày giờ chết đớn đau. Trong cuộc sống hằng ngày, người Phật Tử phải căn cứ trên hạnh từ bi, bình đẳng và lợi tha, trong mỗi hành động, lời nói và ý nghĩ. Cổ nhân có nói: “Nhứt thiết chúng sinh vô sát nghiệp, hà sầu thế giới động đao binh“. Nghĩa là: Nếu tất cả chúng sinh không sát hại lẫn nhau, thì lo gì thế giới có chiến tranh.
Lòng từ bi của những người ăn chay, biết thương yêu loài người, lan rộng đến các loài sinh vật. Họ hiểu biết rằng các loài sinh vật đều ham sống sợ chết, đều bình đẳng trước sự đau khổ, khi bị sát hại, cũng như loài người, không khác. Chứ không phải, người ăn chay chỉ vì lý do sức khỏe, không thể ăn thịt được, hoặc ăn chay với tâm mong cầu được sống lâu hơn, được lên thiên đàng, được về cực lạc. Tại sao vậy? Bởi vì, con trâu con bò, con lừa con ngựa, cũng là ăn chay, chỉ biết ăn cỏ, không ăn thịt được, nhưng, đời sống của chúng, khốn khổ khốn nạn, biết là bao nhiêu. Cũng không phải ăn chay để thỏa mãn mục đích cầu danh: muốn được mọi người, tán thưởng khen mình, như là một bậc, bồ tát tại thế, đã thọ bồ tát giới, hành bồ tát đạo, bao nhiêu người khác, chỉ là kẻ xạo, vì không ăn chay, hay cỡ như mình. Người ăn chay trường khinh khi người ăn chay kỳ, người ăn chay kỳ khi dể người chưa biết ăn chay. Tâm của những người như vậy chưa thanh tịnh, còn quá loạn động, lăng xăng lộn xộn, còn thích hơn thua, mua danh kiếm tiếng, khiến người không ưa, ngay trong đồng đạo, đồng môn đồng bào, cả với đồng loại, làm sao người đó, có thể gặp Phật, có thể thành Phật?
Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: “Muốn học đạo Vô Thượng Bồ Ðề, chẳng nên khinh dể hàng sơ học. Có kẻ dưới bực thấp mà thường phát sinh trí tuệ rất cao,cũng có người trên bực cao mà thường chôn lấp lý trí của mình. Nếu khinh dể người, ắt có tội vô lượng vô biên“. Trên thế gian này, không ai hơn ai cả! Tất cả mọi người với chư Phật bình đẳng, không khác, con người chỉ khác ở chỗ mê ngộ không đồng, nghiệp báo khác nhau, cho nên hình tướng bên ngoài của con người khác nhau. Ðây mới chính là ý nghĩa của lời Ðức Phật dạy trong Kinh Hoa Nghiêm: “Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh“. Nghĩa là: Tất cả chúng sanh đều có tánh giác, còn gọi là Phật Tánh. Phật và chúng sanh tánh thường rỗng lặng, chính là nghĩa như vậy. Người nào có tâm cố chấp, bất cứ thứ gì xảy đến, đều gây phiền não khổ đau, đến khi họ thức tỉnh, xả bỏ tâm cố chấp, tức nhiên họ được giác ngộ, giải thoát khỏi những phiền não khổ đau, sống được trong cảnh giới an lạc và hạnh phúc, mặc dù cảnh đời vẫn tiếp tục còn nhiều bất trắc, sóng gió, và thăng trầm.
Có những người đem tâm từ bi chan rải cho những loài vật nhỏ nhít, như côn trùng gián kiến ruồi muỗi, không dám sát hại chúng, hoặc những loài vật lớn hơn, như gà vịt heo bò, không dám ăn thịt chúng, cho nên họ ăn chay trường và sống chung với gián kiến ruồi muỗi, hoặc xua đuổi chúng sang nhà kế bên! Thế nhưng đối với, những người chung quanh, gần như vợ chồng, ông bà cha mẹ, anh em con cháu, xa hơn một chút, hàng xóm láng giềng, đồng nghiệp đồng môn, nói chung đồng loại, nhân loại loài người, một câu lỡ lời, thì họ nhứt định, không chịu bỏ qua, thứ tha lỗi người. Họ rất sẵn sàng, thưa gửi kiện tụng, vu khống cáo gian, đặt điều thêm bớt, bới bèo ra bọ, vạch lá tìm sâu, làm cho người khác, te tua tơi tả, tan tành hoa lá, khốn khổ khốn nạn, họ mới thỏa mãn, hả dạ hài lòng, mới thiệt vừa ý! Một câu nói của họ đủ khiến cho người khác chóng mặt nhức đầu, xức dầu cù là, hoặc là cạo gió, ngất xỉu hụt hơi, có người hết thở! Cũng có những người, tại gia tại chùa, sợ tội sát sinh, những khi có bệnh, không dám uống thuốc, không dùng thuốc thoa, dù ở ngoài da, sợ diệt vi trùng, bởi vì quan niệm, bệnh là quả báo, tất cả mọi người, phải trả cho xong, cầu mong cực lạc. Thậm chí phản đối, đủ thứ các việc, phá rừng làm rẫy, làm ruộng trừ sâu, phá hoại mùa màng, họ liền kết án, hủy hoại môi sinh, chiếm đoạt môi trường, côn trùng thú dữ, không chỗ nương thân! Họ đâu biết rằng: chính ngay trong miệng, biết bao vi trùng, ngay trong ly nước, bao nhiêu vi khuẩn! Chính bởi vì thế, có những tà giáo, không cho sang máu, khi nằm trị bệnh, đành để bệnh nhân, chịu chết chứ sao!
Cũng có những người, tại gia tại chùa, không dám trừ khử, gián kiến bọ chuột, còn đem thêm đồ, để cho chúng ăn, sợ chúng đói chết, kẻo mà tội nghiệp, nhưng họ không hề, giúp bất cứ ai, dù rằng người đó, đang gặp khốn khó, khốn khổ khốn nạn, dù là người thân, hoặc là kẻ sơ, dù là người thương, hoặc là kẻ thù! Có rất nhiều người, ở nhà ở chùa, không dám trừ khử, gián kiến ruồi muỗi, sợ bị mang tội, nhưng rất sẵn sàng, loại bỏ đồng môn, khai trừ đồng đạo, ám hại đồng bào, cào nhà đồng nghiệp, chỉ vì đồng tiền, hoặc vì họ không, hài lòng vừa ý, về một vấn đề, dù lớn dù nhỏ, một cách tàn nhẫn, không biết tiếc thương, hoặc chỉ vì tâm, ganh tị đố kỵ, mà thôi. Một ngọn đèn bình thường, được gọi là hữu dụng, khi tỏa ánh sáng ở gần trước, sau đó lan ra xa mới phải. Cũng vậy, tấm lòng từ bi thực sự phải được những người ở gần chung quanh cảm nhận trước, sau mới đến những người ở xa, còn dư nữa mới chan rãi đến những loài chúng sinh khác. Tuy nhiên, có những người tỏ vẻ bác ái, tự xưng vì lòng từ bi, tự nhận bạn của thú vật, cổ động khuyến khích người khác ăn chay, để tránh sát sinh hại vật, những con vật vô tội đáng thương, một cách thiết tha cảm động, nhưng cũng đồng thời, rủa xả thậm tệ, dai dẳng dằng dai, những người ăn mặn, chưa ăn chay được, bất kể lý do.
Những con người đó, vẫn biết vẫn nhớ, lời Ðức Phật dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh“, nhưng chỉ tôn trọng, Phật Tánh của các con vật, còn con người nào làm mích lòng, không đồng quan điểm, không cùng pháp tu, họ rất sẵn sàng, mạt sát miệt thị, lên án phỉ báng, không tiếc lời nào. Tấm lòng từ bi của những người như vậy, chắc cần phải được xét lại! Ngày xưa, khi Ðức Phật còn tại thế, có một người đến dâng bát cơm cúng dường, bởi vì nghe nói, cúng dường một bậc đạo sư như Ðức Phật, được vô lượng phước báu. Ðức Phật bèn hỏi: Mẹ của ngươi ăn cơm chưa? Người đó đáp: Dạ chưa. Ðức Phật dạy người đó mang bát cơm về, dâng cho mẹ ăn no lòng trước đã, mới đúng đạo làm người. Ở các nước tây phương, văn minh tiến bộ, có những hội bảo vệ súc vật, sẵn sàng đòi hỏi luật pháp phạt tù thật nặng một con người, nếu người đó đánh đập một con vật, như chó mèo chẳng hạn. Có người ăn xin, nghèo khổ rách rưới, ngồi ở vỉa hè, suốt cả ngày trời, thời tiết giá băng, có ông đi qua, có bà đi lại, nhưng chẳng một ai, cho một đồng xu. Ngay ngày hôm sau, người ăn xin đó, dẫn con chó nhỏ, để nằm bên cạnh, liền nhận được ngay, nhiều tiền bố thí, từ nơi những người, mến thương súc vật, kiểu Y2K, thế kỷ 21!
Trong đạo Phật, nói chung, có hai hệ phái: hệ phái nguyên thủy và hệ phái phát triển. Hệ phái nguyên thủy, còn gọi là Nam tông, chủ trương giữ y nguyên truyền thống Phật giáo, từ thời nguyên thủy, cho nên quý sư là các vị khất sĩ, mang bình bát đi khất thực, thiên hạ bố thí cúng dường vật thực gì, các ngài dùng như vậy, không chọn lựa. Các ngài vẫn khỏe mạnh, tinh tấn tu hành, và đạt đạo chứng đạo. Ðó là hệ phái truyền từ miền nam nước Ấn Ðộ, sang Tích Lan, Thái Lan, Miến Ðiện, Ai Lao, Cao Miên. Phật giáo ở các quốc gia này đều là quốc giáo. Còn hệ phái phát triển, còn gọi là Bắc tông, truyền từ miền bắc nước Ấn Ðộ, sang Tây Tạng, Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên và Nhựt Bổn. Khi Phật giáo du nhập vào các quốc gia này, tùy thuận văn hóa sở tại, nên dễ dàng hội nhập một cách hòa bình, và phát triển một cách nhanh chóng trong lòng các dân tộc đó, biến thành Phật giáo địa phương, đem lại an lạc và hạnh phúc cho người dân bản xứ. Chẳng hạn như: Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Triều Tiên, Phật giáo Nhựt Bổn, đều có những nét đặc thù, riêng của từng nơi. Ở các quốc gia này, chỉ trừ Việt Nam có cả hai hệ phái cùng du nhập vào, chư Tăng Ni không đi khất thực, trụ xứ tại một tu viện, hay một ngôi chùa, tự lo việc ăn uống. Cho nên các ngài ăn chay, chỉ nhận cúng dường và dùng các thức ăn, không có liên quan đến mạng sống của các sinh vật. Các ngài vẫn khỏe mạnh, tinh tấn tu hành, và đạt đạo chứng đạo. Ðiều đó chứng tỏ rằng, vấn đề ăn uống nói chung, ăn chay hay ăn mặn nói riêng, không phải thực sự là vấn đề tối quan trọng trong đạo Phật, cũng không phải là vấn đề trực tiếp liên quan đến sự tinh tấn tu hành, và đạt đạo chứng đạo.
Ðiều quan trọng trong đạo Phật chính là: Tâm trí có dính mắc hay không dính mắc cảnh trần. Nếu tâm dính mắc, gọi là tâm phan duyên, tâm loạn động. Nếu tâm không dính mắc, chính là tâm thanh tịnh vậy. Chư Tổ có dạy: “Ðối cảnh vô tâm, mạc vấn thiền“. Nghĩa là: Con người sống trên đời, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, thường xuyên tiếp xúc với các hình ảnh, âm thinh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm và ký ức. Khi con người tiếp xúc với các trần cảnh như vậy, dính mắc tức là: khởi tâm niệm thương hay ghét, khởi tâm niệm ưa thích hay tức giận, khởi tâm niệm khen hay chê, đều gọi là loạn tâm, là vọng tâm. Không khởi các tâm niệm phân biệt như vậy, gọi là định tâm, hay tâm thiền định. Tức là: Khi đối trước các cảnh trên trần đời, người nào không khởi tâm niệm lăng xăng lộn xộn, gọi là vô tâm, thì chính người đó sống trong cảnh giới thiền định. Ðây là cốt tủy, là mục đích cứu kính của đạo Phật vậy. Là những người hướng dẫn hàng Phật Tử tại gia, chư vị Tôn Ðức Tăng Ni giữ gìn giới luật một cách nghiêm ngặt, tránh phạm sát giới, không muốn sát sinh, nên phải ăn chay, tuyệt đối không dùng các thức ăn có liên quan đến mạng sống của các sinh vật, để trưởng dưỡng tâm từ bi. Tâm từ bi là điều kiện hàng đầu của người tiến tu theo đạo Phật.
Còn đối với hàng Phật Tử tại gia, người nào phát tâm ăn chay trường được, thì thực là đáng quý, đáng trân trọng. Ðó là nhân duyên tốt để tiến tu trên đường đạo, rất đáng khuyến khích. Tuy nhiên, đối với những người, không ăn chay trường, lý do hoàn cảnh, vì lý do sức khỏe, cũng đừng cố chấp, gây thêm rắc rối, ở trong gia đạo, có thể ăn chay, vài ngày trong tháng, mục đích, nhắc nhở chính mình, phải luôn luôn nhớ, những lời Phật dạy, áp dụng hằng ngày, tu tâm dưỡng tánh, cũng thực rất tốt. Tự nhắc nhở mình: tu là phải hiền, phải có lòng từ bi, đối với tất cả mọi loài chúng sinh, bắt đầu từ loài người cho đến loài vật, bắt đầu từ người thân cận, cho đến người ở phương xa, mới là phải đạo vậy. Người nào chưa thể ăn chay được theo nghĩa đen, vì lý do sức khỏe, vì lý do hoàn cảnh, hay vì bất cứ lý do nào, có thể “ăn chay” qua ba nghiệp thân khẩu ý. Nghĩa là: thân không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, miệng không nói dối, không nói lời dua nịnh, không đâm bị thóc thọc bị gạo, không nói lời thô tục độc ác, ý không nghĩ cách vu oan giá họa, không lập mưu thưa gửi kiện tụng người, để kiếm tiền bồi thường, không tham tiền bất chánh bất nhân, không tức giận thù oán người, không chứa chấp lòng ganh tị đố kỵ người khác. Nói chung, không ăn chay được bằng phương tiện vật chất, người Phật Tử tại gia nên cố gắng, giữ gìn thân khẩu ý, cho được thanh tịnh, trong bất cứ thời điểm nào, tại bất cứ nơi đâu. Ðó chính là tu tâm dưỡng tánh vậy.
Giữ giới không sát sinh, trong ngũ giới của người Phật Tử tại gia, trước tiên và trên hết, có nghĩa là: không làm tổn hại mạng sống của con người. Ðối với người Phật Tử xuất gia, thọ nhiều giới luật hơn, dĩ nhiên giới không sát sinh có nhiều điều kiện nghiêm ngặt hơn. Sau đó, đối với các sinh vật khác, người Phật Tử tại gia giữ được bao nhiêu, tốt bấy nhiêu, trong hoàn cảnh thực tế của cuộc sống văn minh tiến bộ. Vì phép vệ sinh chung, chúng ta không nên ích kỷ, sợ mang tội cho riêng mình, không dám trừ khử gián kiến ruồi muỗi chuột sâu bọ, để chúng sống chung, gây thành bệnh dịch cho cộng đồng, cho xã hội, cho nhân loại, tổn hại nhiều nhân mạng, còn đáng tội nghiệp hơn. Giết hại con người, gây khổ đau cho người khác, lợi mình hại người, là điều quan trọng nhứt, cần phải nên tránh, để khỏi tạo tội tạo nghiệp. Giữ giới không sát sinh còn có nghĩa là không làm tổn hại đến thanh danh, đời sống và hạnh phúc gia đình của người khác. Chẳng hạn như có, người vì tâm tham, sai khiến thúc đẩy, âm mưu kiện tụng, người khác ra tòa, bằng những thủ đoạn, sâu hiểm ác độc, đặt điều thêm bớt, vu khống cáo gian, giả tạo thương tật, làm bộ khùng điên, liên miên thưa kiện, gây cảnh tù tội, cho bao người khác, tan nát gia cang, mục đích đòi tiền, bồi thường thiệt hại, có khi đòi tới, vài ba triệu bạc.
Những việc như vậy, làm hại cuộc đời bao nhiêu người khác, gây nên biết bao, khổ đau phiền não, suốt cả cuộc đời, còn lại của họ, tội nghiệp này còn nặng hơn là sát sinh hại vật. Ðó chính là tội sát sinh: những người bị mưu hại, không chết liền tại chỗ, mà chết cả cuộc đời! Khi dám ra tay lấy mạng người khác, chắc chắn con người có tâm tham lam tiền bạc của cải quá lớn, hoặc có tâm sân hận tức giận quá độ, hoặc có tâm si mê quá sâu dầy, cho nên con người tạo nên tội nghiệp hết sức lớn lao, nặng nề. Khi nỡ ra tay sát hại một con vật lớn cũng vậy, như giết trâu bò heo chó làm thịt, hay săn bắn thú rừng, giết voi cọp beo gấu nai, để tiêu khiển, để lột da, để lấy ngà, con người tạo thêm nghiệp báo hết sức lớn lao, nặng nề, không khác. Tại sao vậy? Bởi vì muốn giết người, hay sát hại con thú lớn, người đó đã có chủ ý, đã có kế hoạch, đã chuẩn bị kỹ lưỡng, đã dự mưu tính toán, cho nên tâm của người đó bị vẩn đục nặng nề, con người lún sâu trong vòng tội lỗi. Tôn trọng và bảo vệ đời sống của con người, của mọi loài chúng sanh, là nguyên tắc thực tế nhứt, là động cơ hữu hiệu nhứt, để tôn trọng và bảo vệ đời sống của chính mình.
Làm tổn hại mạng sống của người khác, làm tổn hại an ninh hạnh phúc của người khác, làm tổn hại thanh danh của người khác, tức là tổn hại tâm từ bi của chính mình. Làm tổn hại sinh mạng của chúng sinh, tội nghiệp nặng nhẹ, tùy theo tâm của con người lúc đó. Thí dụ như vì phép vệ sinh, hay vì vô tình, hoặc vì bị cắn đau bất ngờ, con người đập chết con muỗi, tội nghiệp không nặng bằng những người đi câu cá để tiêu khiển, vứt cá lên bờ, chết ngộp đầy dẫy, hoặc những người vừa giết côn trùng, vừa nguyền rủa chúng, trên vỉa hè, ngoài đường phố. Thí dụ như vô ý đạp chết một con trùng, tội nghiệp không nặng bằng một đứa bé cầm roi, đánh cho đến chết một con gà bị đem treo ngược, một cách nhanh nhứt, để lãnh giải thưởng, trong một cuộc thi đua giết gà, do người lớn tổ chức để mua vui! Hơn thế nữa, người biết tu tâm dưỡng tánh, không bao giờ gây đau khổ cho bất cứ ai, dù là người thân hay kẻ thù, qua các hành động đánh đập, hãm hại, hoặc không bao giờ gây não loạn cho người khác, qua việc thưa gửi kiện tụng, vu khống cáo gian, hoặc không bao giờ gây tổn hại thanh danh và hạnh phúc gia đình người khác, qua những lời nói ác độc có chủ ý, đặt điều thêm bớt, có nói không, không nói có, ngậm máu phun người, kết án bừa bải, bóp méo sự thực, xuyên tạc ngụy biện, xiên xỏ xỏ xiên, tranh cãi liên miên, lợi mình hại người, khen mình khinh người, người khác sống chết, đau khổ thế nào, thì cũng mặc kệ!
Những người có bàn thờ Phật, dù tại chùa hay tại gia, dù có ăn chay trường hay ăn chay kỳ, dù có thọ bồ tát giới hay tu bát quan trai giới, tu thập thiện giới, nhưng tâm không thanh tịnh: vẫn còn tiếp tục những hành động, những lời nói, và những ý nghĩ, lợi mình hại người, vẫn muốn người khác chết để mình sống, vẫn muốn người khác nhục để mình vinh, vẫn muốn người khác thua để mình thắng, vẫn muốn xài tiền của người khác, qua các thủ đoạn, như thưa gửi kiện tụng, sang đoạt phần hùn, tiếm dụng tác quyền, giựt hụi quịt nợ, vẫn muốn lợi dụng lòng tốt của mọi người, để sung sướng tấm thân, không cần làm lụng vất vả, kẻ hầu người hạ, thì thực là uổng công vô ích, chẳng ích lợi gì cho việc trở về nguồn cội, cho việc thoát ly sanh tử luân hồi, cho việc dứt trừ phiền não khổ đau! Trong kinh sách có câu: Sân si nghiệp chướng không chừa. Bo bo mà giữ tương dưa làm gì? Nghĩa là: Người nào vẫn tiếp tục tạo nghiệp chướng, tâm tham lam, tâm sân hận, tâm si mê, vẫn còn y nguyên, như vậy, thờ Phật tại chùa hay tại gia, ăn chay lễ lạy, tụng kinh bái sám, phỏng có ích lợi gì đâu chứ? Thậm chí, có người còn vào chùa lạy Phật, van vái ăn chay ba tháng, cúng chút tiền lẻ, hùn chút phước làm việc phước thiện, với tâm cầu xin thắng một vụ kiện, cầu xin trúng mối lợi to lớn, phen này kiếm được vài ba triệu đô la, tạ ơn tượng Phật chút đỉnh sau!
Trong sách cũng có câu: Ăn mặn nói ngay. Ăn chay nói dối. Câu này có thể giải thích nhiều nghĩa khác nhau. Trước hết, câu này ngụ ý: trong trường hợp người ăn chay mà còn phạm lỗi nói dối, tức là giới thứ tư trong ngũ giới của người Phật Tử tại gia, thì không bằng người ăn mặn. Người ăn mặn chẳng hề khoe mình biết tu hành gì hết, nhưng họ nghĩ sao nói vậy, tâm khẩu nhứt như, nói ngay thẳng, không xiên xỏ, không móc họng, không mỉa mai, không đãi bôi, không màu mè, không nịnh bợ, không có chuyện:
Miệng thì nói tiếng nam mô.
Trong lòng chứa cả một bồ dao găm.
Nhẹ nhàng hơn, câu này có nghĩa là: người ăn mặn khi ăn thịt cá, thì họ nói là ăn thịt cá, một cách ngay thẳng rõ ràng. Còn người ăn chay thường thích trổ tài nấu nướng, bằng cách làm các món ăn bằng vật liệu chay, nhưng tên gọi và hình thức giống y như món mặn. Chẳng hạn như người ăn chay nói: tôi ăn thịt quay bánh hỏi, nhưng thực ra, món thịt quay chay đó được làm bằng bột mì với tàu hủ ky, ăn với bánh hỏi. Những món chay nhưng có tên món mặn cũng là đề tài thảo luận, từ xưa đến nay, trong vấn đề ăn mặn và ăn chay, nhiều khi quá đáng đến chỗ hý luận. Tuy nhiên, câu này không có nghĩa xác định rằng: người ăn mặn luôn luôn nói ngay, còn người ăn chay luôn luôn nói dối. Tại sao vậy? Bởi vì chuyện nói ngay hay nói dối, tùy theo người, tùy theo cảnh, tùy theo tâm trạng, chứ không tùy theo chuyện ăn mặn hay ăn chay.
Trong kinh sách, Ðức Phật dạy, có ba trường hợp phạm tội tạo nghiệp như nhau. Ðó là: “tự tác, giáo tha tác, kiến tác tùy hỷ“. Nghĩa là: tự tay mình làm thịt sinh vật sống, để ăn cho hạp khẩu vị, hoặc mở miệng sai bảo, chỉ vẻ cách làm thịt sinh vật sống, để người khác làm, cho mình ăn được ngon miệng, hoặc thấy biết người khác làm thịt sinh vật sống, để đãi mình ăn, mà mình vẫn thấy khoái khẩu, vui vẻ, tất cả đều tội nghiệp như nhau, không khác. Tại sao vậy? Bởi vì trong ba trường hợp trên, tâm của con người loạn động như nhau. Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật có dạy: “Mục đích cứu kính của người tu theo đạo Phật, muốn được giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, muốn được vãng sinh tây phương cực lạc, chính là phải đạt được: cảnh giới nhứt tâm bất loạn“. Trong Kinh Ðịa Tạng, và Kinh Thủy Sám, các hình ảnh chúng sinh bị đọa cảnh giới địa ngục thường được nhắc đến: nào là nằm giường sắt nóng, nào là bỏ vào chảo dầu sôi, nào là nhốt trong phòng bốn vách đều bằng sắt có lửa nóng, nào là xe bằng sắt cán dẹp nát thây, nào là bị đâm, bị cắt da, bị xẻo thịt, bị cắt lưỡi, bị chặt đầu, bị moi óc, bị uống dầu sôi, nuốt hòn sắt nóng. Ngày nay, chúng ta có thể thấy những hình ảnh đó hiện tiền, trên truyền hình, qua các chương trình dạy nấu ăn, hay qua các màn ăn uống, trong nhà bếp tại gia, hay bếp của các nhà hàng, trong khi các con vật vẫn còn sống nhăn: như cá bị bỏ nằm trên chảo chiên, hoặc bị bỏ vào chảo dầu sôi, như cua bị đâm vào bụng, rồi bị bỏ vào nồi nước luộc, như tôm sống bị dao cắt làm hai, như sò ốc bị nướng trên lò, như khỉ bị mổ óc ăn sống.
Những con vật đó ngo ngoe giẫy giụa trên tấm thớt, dưới con dao phay, hoặc bò lăn bò càng trên chảo nóng, hoặc vùng vẫy trong nồi nước sôi, hoặc bị cột trói cứng ngắc, chịu đớn đau vô cùng tận! Thực là cảnh tượng địa ngục ở trần gian, vô cùng khủng khiếp, mà những người có tâm từ bi không thể nào đành chứng kiến! Dĩ nhiên, người Phật Tử chân chánh tuyệt đối không bao giờ nên bày đặt cách ăn uống cầu kỳ quái dị, vui thú trên sự đau đớn rên la của các sinh vật còn sống, ngay tại bàn tiệc, như bậc vua chúa, trưởng giả giàu sang, thường hay hưởng thụ. Chúng ta nên biết rằng những vị vua chúa, hay các nhà giàu sang quyền quý, là những người có rất nhiều phước báo, từ nhiều đời nhiều kiếp trước, nên đời này kiếp này mới được như vậy. Phước báo ví như tiền tiết kiệm dành dụm từ trước, không biết làm việc thiện tạo thêm phước, lại tiêu xài phung phí nhiều quá, cũng có ngày cạn hết. Cho nên khi hưởng hết phước báo, vì trong kiếp này, không biết tu tâm dưỡng tánh, lại còn tạo tội nghiệp như vậy, cuộc đời của họ sẽ kết thúc hết sức bi thảm. Chúng ta đọc sách báo xưa nay thường thấy các vị vua chúa, bị ám sát chết, bị lật đổ không chỗ chôn thân, các nhà giàu sang quyền quý, khánh tận tài sản, đến nỗi phải quyên sinh, kết thúc mạng sống của chính mình, các vị hoàng gia hoàng tử, công chúa quận nương, bị tai nạn thảm khốc, chết không toàn thây, ở trên xa lộ, hoặc dưới biển sâu. Chúng ta là những người thực sự kém phước báo hơn các vị đó nhiều lắm lắm, chớ nên tạo thêm tội nghiệp, bằng cách này hay cách khác.
Chư Tổ có dạy:
“Tu mà không học là tu mù.
Học mà không tu là đãy sách”.
Nghĩa là người phát tâm tu mà không chịu tìm học kinh điển, và không thấu hiểu lời Ðức Phật dạy trong các kinh điển đó, chỉ biết đem kinh điển ra tụng, rồi lạy từng chữ, và đếm bao nhiêu lần, để dâng sớ kể công với Ðức Phật, và van xin Ðức Phật từ bi rước về cực lạc, cho được sung sướng hơn, hoặc chỉ biết lo chuyện hình thức, chuyện vật chất, chẳng hạn như là chuyện ăn uống, ăn mặn hay ăn chay, rồi tranh chấp đúng sai, rồi cãi cọ hơn thua, rồi tự hào tự mãn, như vậy gọi là tu mù. Tại sao vậy? Bởi vì càng tu kiểu đó, tâm của những người như vậy càng loạn động, càng mù tịt, càng u tối, càng thêm phiền não mà thôi, chẳng tiến bộ gì, chẳng ích lợi gì. Những người tu mù, thường hay hảnh diện, về chuyện ăn chay, khi dể ăn mặn, cho rằng ăn mặn, mang nghiệp rất nặng, phải đọa địa ngục, còn mình Niết bàn, thiên đàng cực lạc! Những người tu mù, hiểu rằng chúng sanh, ở trong sáu cõi, cùng khắp pháp giới, đều là bình đẳng, nhưng lại rủa xả, một cách tàn mạt, những người không cùng, quan điểm với mình! Những người tu mù, tỏ ra thương xót, con bò con heo, nhưng, có người ví von, như heo như bò, họ nhẫn không nổi, tam bành lục tặc, như hỏa diệm sơn, bởi vì, họ không hề biết: “y nghĩa bất y ngữ”, nghĩa là làm sao!
Trái lại, những người chỉ thích tìm hiểu kinh điển, đọc thực nhiều sách đủ loại, nội điển ngoại điển: Thế học Triết học, Phật học Thiền học, Thần học Tâm lý học, cho thỏa mãn lòng tò mò, tăng thêm kiến thức, để đem tranh cãi, lý luận đôi co, bắt khoan bắt nhặt, bắt bẻ vặn vẹo, mà lại không chịu, tu tâm dưỡng tánh, phản quan tự kỷ, không xét lỗi mình, chỉ thấy lỗi người, không chịu thực hành, lời Ðức Phật dạy, hằng ngày hằng giờ, trọn không lợi gì. Cũng ví dụ như, nhân viên đếm tiền, ở tại ngân hàng, hay chú mục đồng, đếm trâu cho chủ, quanh đi quẩn lại, quanh năm suốt tháng, tiền cũng chẳng có, trâu cũng chẳng được. Như vậy, có khác nào cái đãy hay cái tủ đựng sách, hoặc cái tàng kinh các mà thôi. Dù cho có người, ăn chay từ nhỏ, ở luôn trong chùa, nhưng không biết tu, theo pháp môn nào, chỉ biết tụng kinh, như thợ tụng đám, rầm rầm rào rào, gõ mõ lóc cóc, cầu an cầu siêu, ê a lên xuống, như hát cải lương, nhưng chẳng hiểu gì, hoặc hiểu một phần, nương theo văn tự, hiểu theo nghĩa đen, đọc đâu hiểu đó, chẳng chịu suy tư, tự cho là đủ, tăng thêm ngã mạn, khinh khi mọi người, trọn chẳng công đức, đôi khi còn khiến, người mới phát tâm, đâm ra chán nản. Tại sao vậy?
Bởi vì, họ chỉ thích lập chùa to, tạo pho tượng lớn, nhưng không Chánh Pháp, giảng dạy cho người, như vậy khác chi, người đời ham thích, nhà cao cửa rộng, chẳng đem lợi gì, đến cho bá tánh, chỉ tạo thêm tội, thêm nghiệp mà thôi. Thí dụ như là: con bò ăn cỏ, không thể ăn thịt, dù sống hay chín, con cọp ăn thịt, không thể ăn cỏ. Những người ăn chay từ nhỏ, không ngửi được mùi thịt cá, đành tiếp tục ăn chay, như vậy có gì hay đâu? Ðó chỉ là nghiệp báo mà thôi. Những người có thể, chọn lựa mặn chay, phát tâm ăn chay, tu tâm dưỡng tánh, mới là đáng quí. Nếu những vị có duyên lành ăn chay từ nhỏ, lại biết tu tâm dưỡng tánh, biết cầu học Chánh Pháp, biết tự lợi lợi tha, biết tự giác giác tha, vì mình vì người, với tâm khiêm tốn, thương xót chúng sanh, đang bị trầm luân, sanh tử luân hồi, gắng công tu tập, công phu thiền định, bản tâm thanh tịnh, có ngày đại ngộ, hoằng dương Chánh Pháp, cứu khổ chúng sanh, muôn loài ích lợi. Ðó chính là những bậc chân tu thực học, những bậc cao tăng thạc đức, là cây to bóng mát trong chốn thiền lâm, là nơi nương tựa cho hàng tứ chúng vậy.
Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm, Ðức Phật có dạy:
Tuy tụng ngàn chương cú. Không hiểu nghĩa ích gì.
Ðâu bằng hiểu một câu. Nghe xong liền ngộ đạo.
Dù tụng ngàn muôn câu. Không rõ nghĩa ích gì.
Chỉ thông suốt một nghĩa. Nghe qua liền đạt đạo.
Thực vậy, mục đích cứu kính của đạo Phật, không phải chỉ là những buổi lễ cầu an, cầu siêu, cầu đoàn tụ, cầu đủ thứ chuyện trên trần đời, xong rồi tính lời tính lỗ. Cũng không phải chỉ là những hình thức bên ngoài như: đi chùa lễ Phật, hái lộc đầu xuân, mỗi năm một lần, ăn chay thọ giới, tụng kinh bái sám, mỗi tháng hai lần, lập chùa thiệt to, tạo tượng thiệt lớn, cho có vẻ linh thiêng huyền bí, mà chẳng hiểu làm như vậy có ý nghĩa gì, bởi không chịu tìm học Chánh Pháp, chỉ tăng thêm chấp ngã và chấp pháp mà thôi. Tất cả những sự tướng kể trên, không phải là không cần thiết, không phải là không nên làm, không phải là vô bổ vô ích, một cách hoàn toàn. Nhưng, như vậy vẫn chưa phải là đủ, chưa phải là cứu kính, chưa phải là cốt tủy của đạo Phật. Ðó chỉ là cái vỏ bên ngoài, là vòng rào bên ngoài, dành cho những người mới bắt đầu đến với đạo Phật. Những người thờ Phật nhiều đời, hoặc phát tâm tu theo đạo Phật lâu rồi, làm việc chùa nhiều năm rồi, mà vẫn dừng lại ở những hình thức bên ngoài như vậy, và chịu thỏa mãn, thì chẳng ích lợi gì, chẳng tiến bộ gì. Mục đích cứu kính của đạo Phật là giúp đỡ con người đạt được giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, chứ không phải chỉ có những lễ nghi này và những nghi lễ kia như vậy mà thôi.
Nhưng con người cần giác ngộ điều gì? Theo đạo Phật, con người cần giác ngộ: cuộc đời là vô thường, biến đổi luôn luôn, tâm tánh là vô thường, nay vầy mai khác, tấm thân là giả tạm, nay còn mai mất, chỉ tồn tại hơn kém một trăm năm mà thôi. Cho nên phải hiểu biết sâu luật nhân quả, mới có thể gìn giữ bản tâm thanh tịnh, chuyên làm các việc thiện, chuyên nói các việc hiền, chuyên nghĩ các việc lành, tránh làm các điều ác, tránh nói các điều dữ, tránh nghĩ các điều bất thiện, tránh gây phiền não khổ đau cho người khác, chẳng hạn như: sát sinh hại vật, lường gạt trộm cắp, phá hoại gia cang, nói lời độc ác, chia rẽ người khác, vu khống cáo gian, thưa gửi kiện tụng, ăn gian nói dối, lợi mình hại người, đòi tiền bồi thường, vài ba triệu bạc, lòng tham không đáy, có ngày trở lại, hại chính nơi mình. Hiểu biết sâu luật nhân quả, con người cố gắng làm bất cứ điều thiện nào, dù nhỏ dù lớn, để tạo thêm phước báu, hầu giảm bớt nghiệp báo, đã tạo trước đây, qua các dạng như: được nhiều may mắn, quới nhơn giúp đỡ, gặp người tốt bụng, tai qua nạn khỏi, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Chứ khấn vái, van xin, cầu nguyện, thực ra chẳng có ích gì, có được gì đâu?
Tại sao như vậy? Bởi vì, chư Phật hay các vị thánh thần thiêng liêng, đâu có làm chuyện bất công, thỏa mãn lời van xin cầu khẩn của những kẻ còn gây tội tạo nghiệp, còn gây đau khổ cho người khác, dù bằng hành động, lời nói hay ý nghĩ, chưa chịu tu tâm dưỡng tánh, làm sao xứng đáng được hưởng những điều cầu khẩn van xin đó. Hơn nữa, cứu kính của đạo Phật là chỉ dạy con người giác ngộ “bản tâm thanh tịnh” của chính mình, sẵn có xưa nay. Trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật có dạy:
Tất cả chúng sinh đều có bản tâm thanh tịnh.
Chúng sinh chẳng nhận thấy được, vì bị vô minh che lấp.
Nghĩa là: Con người ai ai cũng có bản tâm thanh tịnh. Chỉ vì lòng tham lam của cải tiền bạc, tham đến bạc triệu đô la, chứ chẳng phải ít ỏi gì, hoặc chỉ vì lòng sân hận tự ái cao độ, hoặc chỉ vì lòng si mê cố chấp, cho nên con người mới tạo tội tạo nghiệp, làm cho tâm trí loạn động, thường xuyên bất an, điên đảo loạn cuồng, để rồi trôi lăn vào vòng sanh tử luân hồi, đã muôn kiếp trước, và sẽ tiếp tục trôi lăn, muôn kiếp về sau, nếu như không biết, nếu như không chịu, dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Với số tiền nho nhỏ, quyền lợi không đáng kể, con người còn có thể tỉnh thức, có thể dừng được nghiệp, có thể dẹp lòng tham, không thưa kiện người khác, không gây não loạn người, và gia đình của họ.
Nhưng khi kiện thưa, đòi tiền bồi thường, vài triệu đô la, con người thành ma, tối tăm mặt mũi, liều mạng đưa chân, hết biết lẽ phải, nhắm mắt làm càng, tới đâu cũng được, địa ngục chẳng ngán, súc sinh chẳng sợ, ngạ quỉ chẳng sao, miễn là thu vào, một số tiền to, cho sướng cái đã, bất cứ chuyện gì, hạ hồi phân giải. Mãnh lực của đồng đô la quả thực là vạn năng, thượng đế chẳng bằng, đã lôi kéo không biết bao nhiêu chúng sinh u mê, vào vòng tội nghiệp, từ xưa đến nay! Chúng ta là người tỉnh thức, đang tu học Chánh Pháp, đang muốn trở về nguồn cội, đang muốn chuyển hóa cuộc đời của mình, đang muốn thoát ly sanh tử luân hồi, càng phải nên hết sức cẩn trọng, cẩn trọng và cẩn trọng! Muốn được gặp Phật, phải bỏ tâm ma. Thực là đơn giản, không tìm đâu xa, nhưng không dễ làm. Khi con người biết dừng nghiệp và chuyển nghiệp, tức là con người được giải thoát khỏi sự trói buộc của nghiệp chướng. Ðó mới chính là mục đích cứu kính của đạo Phật. Khi đã hiểu biết được chân lý đó rồi, con người thấy được hướng đi của người Phật Tử chân chánh, biết tu tâm dưỡng tánh, ăn chay hay ăn mặn, không còn là vấn đề nữa! Có ông Liêm Sứ, ở xứ Hồng Châu, đến hỏi Thiền sư, Mã Tổ Ðạo Nhất: Uống rượu ăn thịt, nên hay không nên? Ngài Mã Tổ đáp: Uống rượu ăn thịt, là “lộc” của ngài. Không uống rượu ăn thịt là “phước” của ngài! Có phước mới hưởng lộc. Có phước mới trường thọ. Ðó là: “Phước, Lộc, Thọ”. Không có phước, sao được hưởng lộc, sao được trường thọ?
Ngày xưa, vào đời nhà Trần, khi Hoàng Thái Hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm mời vào cung điện dự tiệc thịnh soạn, Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ ngồi vào bàn tiệc, vừa ăn món chay vừa ăn món mặn, không quan tâm lựa chọn. Hoàng Thái Hậu thấy vậy, ngạc nhiên hỏi: Hoàng huynh thiền định, mà ăn cá thịt, thành Phật sao được? Tuệ Trung Thượng Sĩ cười đáp: “Phật là Phật, huynh là huynh. Huynh chẳng cần làm Phật, Phật chẳng cần làm huynh. Thái Hậu há chẳng nghe cổ đức nói: Văn Thù là Văn Thù, Giải Thoát là Giải Thoát, đó sao?”. Hoàng Thái Hậu nghe qua liền giác ngộ. Theo sử sách ghi, chúng ta được biết, Tuệ Trung Thượng Sĩ là một vị Cư Sĩ, vào đời nhà Trần, ở nước ta. Ngài vốn là một vị tướng lãnh, một quan đại thần trong triều, sau khi ngộ đạo, Ngài liền từ quan, tỉnh tu tại gia, giảng dạy đạo lý cho những người hữu duyên, tầm sư học đạo, từ hàng vua chúa, quan quyền trưởng giả, cho đến thứ dân. Ngài là con cả của Khâm Minh Từ Thiện An Sinh Vương Trần Liễu, và là thầy dạy đạo của Hoàng Ðế Trần Nhân Tôn. Hoàng Ðế Trần Nhân Tôn hai lần đại thắng quân Mông Cổ, giữ yên bờ cõi, sau này nhường ngôi, đi tu trên núi Yên Tử, đạt đạo trở thành Sơ Tổ Trúc Lâm, tức là Ðiều Ngự Giác Hoàng. Những điều luận bàn đạo lý huyền diệu của Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ được các bậc thạc đức thiền môn rất kính trọng. Ðiều chúng ta cần lưu ý nơi đây là: trình độ tu tập giác ngộ của Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ đã vượt khỏi tam giới, đã thoát khỏi thế giới hiện tượng tương đối, chúng ta không thể so sánh được! Câu chuyện này ngụ ý: Việc tu tâm dưỡng tánh mới thực sự là điều quan trọng, và nhằm mục đích đả phá quan niệm sai lầm cho rằng: ăn chay sẽ thành Phật, ăn chay sẽ lên thiên đàng, ăn chay sẽ về Niết bàn, còn ăn mặn sẽ đọa địa ngục!
Tóm lại, vấn đề ăn mặn và ăn chay còn khá nhiều khía cạnh tế nhị khác, trong phạm vi hạn hẹp và nông cạn, bài viết này không thể bao gồm hết tất cả các phương diện, một cách hoàn toàn được. Tuy nhiên, chúng ta cũng đã có một khái niệm khá rõ ràng về vấn đề này, có thể áp dụng vào trong đời sống thực tế hằng ngày. Cổ nhân có dạy: “Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn”. Nghĩa là: Con người sanh ra, trên trái đất này, ngoài chuyện ăn uống, để giữ mạng sống, bồi dưỡng sức khỏe, chúng ta còn nhiều, chuyện khác để làm, đem lại ích lợi, cho người cho đời, và chính bản thân. Trong đạo Phật, vấn đề ăn uống không phải là chuyện quan trọng hàng đầu. Dù ăn mặn hay ăn chay, cần nên giản dị, không nên cầu kỳ, dành nhiều thời giờ, cho những việc làm, ích lợi bản thân, đối với tâm linh, đời sống tinh thần. Chính chuyện tu tâm dưỡng tánh mới đáng làm chúng ta bận tâm thực hành hằng ngày. Chuyện ăn uống thuộc về phạm vi thể chất, bồi bổ cho tấm thâm tứ đại giả tạm này, để làm phương tiện cho việc tinh tấn tu tâm dưỡng tánh, cho đến ngày giác ngộ và giải thoát.
Chư Tổ có dạy: “Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên”. Hoặc: “Cơ lai khiết phạn, khốn lai thùy“. Nghĩa là: “Ðói đến thì ăn, mệt ngủ khò”. Lúc mình đói bụng, một củ khoai nhỏ, cũng tạm ấm lòng. Khi ăn quá no, căng bụng tràn họng, lúc đó món nào, dù mặn hay chay, cũng chẳng còn ngon. Sách có câu: “No mất ngon, giận mất khôn“. Con người muốn sống một cuộc đời an nhàn tự tại, không nên chú tâm, không nên lệ thuộc quá nhiều về sự ăn uống. Một người chỉ biết ăn chay, tụng niệm suốt đời, không tìm biết mục đích cứu kính của đạo Phật, quả thực là phí phạm cả kiếp sống này. Việc học hiểu để phát triển trí tuệ, và thực hành Chánh Pháp, ngay trên cuộc đời, tại thế gian này, cho đến khi được viên mãn, mới thực sự là việc quan trọng của người Phật Tử, tại gia và xuất gia. Ðó mới là mục đích cứu kính của đạo Phật, ăn uống chỉ là một phương tiện, trong bao nhiêu phương tiện khác, mà thôi. Một thực tế khác về vấn đề ăn mặn và ăn chay chúng ta cần nên hiểu biết. Ðó là các thứ nông phẩm dùng để ăn chay như: cơm gạo, rau cải, hoa quả, trái cây, thu hoạch được sau khi trải qua quá trình: trồng trọt, tưới nước, bón phân và trừ khử các loại sâu rầy phá hoại mùa màng. Nghĩa là các nông gia phải lao động khổ nhọc và phải sát trùng, để mùa màng được tươi tốt, thu hoạch được cao, tăng gia sản xuất.
Khi dùng các nông phẩm đó, để gọi là ăn chay, tránh nghiệp sát sinh, trưởng dưỡng tâm từ bi, tu tâm dưỡng tánh, chúng ta đã không tránh được sát giới, một cách hoàn toàn, dù không trực tiếp, cũng là gián tiếp, cũng chịu cộng nghiệp, với các nông gia. Cho nên, người Phật Tử tại gia hay xuất gia, mỗi khi thọ thực, cần phát tâm từ bi, thương xót những người chưa thể ăn chay được, vì bất cứ lý do gì, hoặc là các nông gia phải phạm sát giới, để làm nên các nông phẩm chúng ta đang dùng, bằng cách tự đọc lời cầu nguyện trước khi ăn, để hồi hướng phước báu ăn chay, hay công đức trì giới của mình, đến tất cả chúng sinh, trong khắp pháp giới. Hoặc chúng ta chắp tay cầu nguyện cho tất cả chúng sinh, ít ra cũng đều có những bữa cơm đạm bạc như mình vậy. Bài viết này tìm hiểu vấn đề ăn mặn và ăn chay, trong phạm vi đạo Phật, nhằm mục đích khuyến khích, tán thán việc ăn chay đúng Chánh Pháp, trưởng dưỡng tâm từ bi, chú trọng việc tu tâm dưỡng tánh, để đạt được giác ngộ và giải thoát, mà thôi. Ðể kết thúc bài viết này, có bài kệ như sau:
Như ăn chay suốt đời
Nhưng tâm không thanh tịnh
Không hiểu biết Chánh Pháp
Khác chi bò ăn cỏ.
Cư Sĩ Chánh Trực

Thiếu nữ Hàn Quốc quyến rũ với nội y


Nàng thiếu nữ với những hình ảnh gợi cảm mà tinh tế, quyến rũ mà không hở hang.
[IMG]
[IMG]
[IMG]
[IMG]
[IMG]
[IMG]
[IMG]
[IMG]
[IMG]
[IMG]

Tám điều giác ngộ bậc đại nhân: điều giác ngộ số 2

Phật Tổ dặn chúng ta bớt đi những ham muốn thế gian, hướng ham muốn thành ý tưởng tu hành và làm chủ được mình. Những ham muốn quái gở sẽ đưa con người đến cay đắng khổ đau, vì vậy không nên theo đuổi nó.
Chánh văn:
弟二覺知
多欲為苦
生死疲勞
從貪欲起
少欲無為
身心自在. 
Âm: 
Đệ nhị giác tri,
Đa dục vi khổ,
Sanh tử bì lao,
Tùng tham dục khởi,
Thiểu dục vô vi,
Thân tâm tự tại. 
Dịch:
Giác ngộ thứ hai,
Tham nhiều là khổ,
Sanh tử nhọc nhằn,
Từ tham dục ra,
Ít muốn vô vi,
Thân tâm tự tại.
Gỉang:
Điều thứ hai, giác ngộ rằng ham muốn nhiều thì đau khổ nhiều. Những nỗi khốn khổ trong cõi sanh tử đều do tham muốn mà sanh. Người ít ham muốn, không tạo tác nghiệp bất thiện nên thân tâm được tự tại.
Khi chúng tôi còn nhỏ thường được gần gũi hầu chuyện hoặc thăm viếng chư vị tôn đức, quý ngài luôn nhắc nhở dục có sức hấp dẫn rất lớn, nó cũng là một loại năng lực mạnh mẽ đối với người tu. Thật ra trong thời đó, chúng tôi chưa nhận rõ dục là cái gì? Tuy nhiên, các ngài luôn quan tâm hướng dẫn và nhất là giảng giải bằng mọi cách để tăng chúng hiểu. Khi hiểu ra cộng với thời gian trưởng thành trên bước đường tu tập, chúng tôi thấy quả thật dục là một loại ma lực đưa con người đi vào trầm luân khổ ải không có ngày cùng. Tuy nhiên, cũng từ dục có thể giúp chúng ta dũng tiến trên con đường giải thoát. Thật sự nếu sống trên cuộc đời này mà không mong muốn gì hết, thì người ấy một là Phật, Bồ-tát hay bậc đại giác ngộ; hai là giống như cục thịt dư vậy. Sống mà không biết, không làm, cũng không mong cầu, không tỉnh táo thì thuộc loại người không sử dụng được, khác nào cục thịt dư.
Dục có hai chiều: Một là mong muốn thúc đẩy chúng ta hướng tiến theo sự sắp đặt đúng của mình, thì cái dục này không phải là tai hại hay ma lực. Có thể gọi nó là sức sống hướng con người vươn tới lý tưởng của mình. Hai là những mong muốn đưa con người vào cạm bẫy, để rồi không thể nào thoát ra khỏi, bị nó làm cho khốn khổ. Một khi đã gây tạo những nghiệp nhân bất hảo, chúng ta bị dính mắc mãi trong vòng luẩn quẩn của cuộc đời này.
Trước tiên, chúng ta bàn về mặt tốt của dục. Ví dụ vị thầy muốn nhắc nhở, dạy dỗ đệ tử khi vị đó mới phát tâm tu, chưa hiểu nhiều về đạo, người thầy phải hướng dẫn cho đệ tử nhận hiểu và khuyến tấn họ ham thích tu hành. Khi còn nhỏ có lần tôi đi ngang trường dạy học của chư tăng, thấy vị thầy mặc áo màu đà đứng giảng và viết những chữ Hán trên tấm bảng. Thầy cầm cây thước đi tới đi lui chỉ và giải thích nghĩa đen, nghĩa sâu từng chữ. Tôi đứng lại bên cửa sổ phòng học nghe ké một hồi, thấy vậy Thầy đi tới hỏi:
- Chú có muốn học không?
Tôi liền thưa:
- Dạ, con muốn học.
- Chú ở đâu?
- Dạ, con ở xa lắm.
- Chú tới đây làm gì?
- Dạ, con có chuyện đi ngang đây, thấy Thầy giảng con đứng lại nghe.
Hỏi xong, Thầy kêu vô lớp chỉ cái ghế trống, bảo:
- Ngồi đó nghe đi.
Đó là nhân duyên ban đầu tôi gặp Thầy. Một lần khác, tôi cũng gặp lại Thầy vào dịp Thầy đưa đại chúng đi nghỉ mát ở ngôi chùa tôi đang trọ. Lần này Thầy hỏi:
- Chú làm gì ở đây?
- Dạ, con cũng ra đây nghỉ.
- Chừng nào chú về?
- Dạ, mấy hôm nữa con về.
- Chú có đi học gì chưa?
- Dạ thưa Thầy, con rất muốn đi học mà chưa được đi học.
Nghe vậy, Thầy bảo đến ngày tháng đó tới Phật học đường Nam Việt, nói tên của Thầy và một vị thầy nữa giới thiệu, muốn học gì chú cứ trình bày sẽ được hướng dẫn giúp đỡ cho.
Hai lần gặp Thầy, là một nhân duyên lớn gắn bó trong đời tu của tôi. Những lời Thầy nói ban đầu tôi xem là những bài pháp khai tâm. Bấy giờ dù chưa được đi học vì bận rộn nhiều việc, nhưng hễ có dịp là tôi đến nơi quý thầy dạy học và ngồi hàng giờ để nghe những lời giảng giải của quý ngài. Nghe cũng có chỗ nhận, có chỗ chưa nhận. Tuy thích học nhưng không biết nhân duyên gì cứ khiến tôi đi lòng vòng bên ngoài, chưa vào dự học được. Đến khi đủ duyên vào học thì bài học đầu tiên là điều giác ngộ thứ hai trong bản kinh Bát Đại Nhân Giác mà hôm nay tôi nói lại cùng các huynh đệ.
Điều giác ngộ thứ hai nói về những ham muốn, dục vọng thế gian . Nó chính là những ma sự loanh quanh trong đời tu của tất cả chúng ta. Nếu biết sử dụng, nó là năng lực thúc đẩy để chúng ta tiến tới. Trái lại, nếu bị mê hoặc thì nó là một loại ma lực đưa con người vào trong những hoàn cảnh khốn khổ không có lối thoát. Đối với kinh nghiệm của quý thầy tu hành trước, các ngài luôn nhắc nhở người sau trên bước đường tu hành phải đề phòng những tham muốn của mình, vì nó là lực sẽ hút chúng ta đi vào con đường trầm luân sanh tử.
Lần đầu tôi gặp một vị thầy giảng về bài này, lần thứ hai tôi là một học tăng trong Phật học đường và đây cũng là bài học đầu tiên khi vào lớp, thành ra nó có một dấu ấn rất sâu trong lòng tôi. Đây là điều hết sức quan trọng, nó bàng bạc trong cuộc sống, khi ta lớn lên có chút hiểu biết qua những kinh nghiệm sống, tu học, tiếp cận với những điều kiện chung quanh. Nếu người không hiểu tới nơi, không nhận ra được mặt tốt, mặt xấu của nó thì tâm nguyện tu hành khó thành tựu.
Tham nhiều là khổ, đó là một định luật. Do vậy khi nào kiểm thấy chúng ta còn nhiều ham muốn, nhiều vọng tưởng, luôn khởi niệm lăng xăng không dừng được, nhớ nhung linh tinh lang tang chuyện này, chuyện khác không phút giây nào yên thì biết mình đang sa vào trong tăm tối đa dục, chứ không phải thiểu dục. Người xưa đã nói đa dục là khổ. Chữ khổ có nghĩa là cay đắng. Các vị có tuổi tác sống trải trên cuộc đời này, ham muốn rồi mong cầu đủ hết, cuối cùng nếm trải cay đắng mùi đời. Do đó, nhiều tham vọng chắc chắn sẽ khổ. Đối với những người vừa lớn lên, tâm hồn còn trong trắng đến với đạo, phát tâm đi tu mà người thân không cho cũng khổ. Nhưng cái khổ để con người nâng sức phấn đấu, gầy dựng cho mình có một năng lực vững mạnh đi lên, thực hiện theo chí nguyện thì nhất định cái khổ này là cần thiết.
Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta thấy trước mắt chùa làm chưa xong, nhưng huynh đệ ham tu nên đầu quân vào đây chịu cực với chúng tôi. Có những buổi chiều mưa, đại chúng phải đi cuốc cỏ hoặc phải dọn dẹp vật tư hay rác rưởi, mà những việc này các huynh đệ chưa từng làm. Tôi thấy các vị là thư sinh mà cầm cuốc, tôi nghĩ cây cỏ hoặc đống đất ngó huynh đệ nó cười “Thưa ngài, không biết ngài có cuốc tôi nổi hay là ngài sẽ té ngã?” Ở đây, tôi muốn nói với các huynh đệ, cái khổ này là cái khổ để gầy dựng cho mình đầy đủ năng lực, đầy đủ ý chí dũng cảm để tiến lên thực hiện ước nguyện cao đẹp của mình. Do nguyện vọng cho nên khổ mà không phải khổ. Trái lại người chỉ muốn nghỉ ngơi, tham muốn nhiều mà không đình đốn được thì quả thực người đó đang lao vào vực khổ.
Chữ Khổ (苦), bộ thảo ở trên đầu có nghĩa là hàng rào, chữ cổ ở dưới có nghĩa là khổ khắc. Có thể đây là một sự khó khăn mà chúng ta phải vượt qua bằng một ý chí hết sức kiên cường, một sự cố gắng vươn lên, vượt qua để chiến thắng. Như chúng ta đâu ai có thể tu năm năm, mười năm mà thành Phật. Trong kinh Phật nói tu một thời gian dài ba bốn kiếp số mới thành tựu đạo quả, một con số không thể tính toán nổi. Đây là một việc làm phi thường. Học lịch sử của Bồ-tát Sĩ-đạt-ta, suốt trong thời gian ở hoàng thành cho đến năm mười tám tuổi, ngài đã lập gia đình theo lệnh của vua cha. Những năm này nhu cầu cung ứng cho ngài rất sung mãn không thể nói khổ mà vì quá nhiều, quá thừa cho nên ngài chán và muốn thoát ra khỏi nó.
Khi Thái tử Sĩ-đạt-ta bước chân ra khỏi hoàng thành, mọi thứ bên ngoài hoàn toàn khác hẳn với những gì ngài đang có. Thấy người bệnh ngài hỏi Xa-nặc người đó sao vậy, được trả lời đó là người bệnh, ngài lại hỏi bệnh là sao? Có lẽ ông hoàng này chưa từng bị nhức đầu, đau răng, phong thấp hay cảm ho, sổ mũi… Đó là những bệnh thường, còn có những bệnh không có thuốc trị thì vô nhị tỳ. Rồi hỏi: Chết là sao? Đó là những cảnh ngài chưa từng thấy. Ra khỏi cổng thành ba bốn mặt, mặt nào cũng chứng kiến lẽ thật của cuộc đời. Người già, người bệnh, người chết. Đối với người già, người bệnh, thây chết ngài đều đặt nghi vấn, nghe mình thấy lạ thường. Bởi vì suốt cuộc đời từ sinh ra cho đến 19, 20 tuổi, ngài chưa lần nào bước chân ra khỏi cổng thành. Cho nên tất cả những lẽ thật của cuộc đời bị khuất lấp.
Khi đối diện với già bệnh chết, ông hoàng rúng động, cứ ngỡ rằng người thế gian ai già mặc họ, còn ngài sống trong tiện nghi như vậy làm sao có chuyện già. Gặp người chết, Thái tử hỏi: “Ta có chết không?” - Dạ hoàng tử cũng sẽ nín thở trong một ngày nào đó. Những lẽ thật của con người, của cuộc đời nằm kề cận nhưng chúng ta không để ý tới. Cuộc sống này đầy rẫy những khổ đau, chúng ta phải đối phó, đương đầu đối mặt với tất cả, nên không có thời gian để nghĩ ngợi chuyện khác. Như người ăn cơm buổi sáng mà chưa có gạo buổi trưa, bây giờ làm cách nào để có gạo nấu cơm trưa. Có khi được gạo ăn bữa trưa thì chưa có gì để chuẩn bị cho buổi chiều. Cứ thế nỗi khổ đầy dẫy, len lỏi, tấn công, không có chỗ nào như ý hết.
Ngày xưa, trong thời gian chiến tranh tôi đã về quê và chứng kiến những sự kiện khổ đau đầy ắp về kiếp người. Nhiều người có phước phần, nhân duyên tốt nhưng chuyện bất như ý xảy ra trái ngược với những gì mong mỏi, nên họ thất chí hóa điên. Trong những năm đó, có lần đang đi học tự nhiên tôi nổi khùng bỏ học. Vì ngày nào lên lớp cũng nghe họ nói chuyện đông chuyện tây, mà chưa từng biết lẽ thật ngoài đời thế nào. Họ bước ra lên xe hơi chạy tới các quán tiệm sang trọng, chưa từng nghĩ đến những người khổ đau thiếu thốn bệnh tật không có thuốc uống, đêm ngủ lây lất nơi các mái hiên.
Trong cuộc sống những vị này chưa có sự nếm trải, vì gia đình giàu sang có điều kiện học hành, bằng cấp cao, làm việc có địa vị. Họ đi xe hơi, bước ra thì guốc dép võng dù tùm lum, lên lớp nói đủ thứ chuyện nghe riết mệt cái đầu. Tôi bỏ chạy. Chạy đi đâu? Ngay nơi quê hương mình sinh ra, vậy mà có một thời tôi bỏ quê đi lang thang. Nhớ lần về thăm người cậu, thời gian này cậu khổ lắm không đủ gạo ăn, phải húp cháo sống qua ngày. Có những con người tự dưng vừa lọt ra đã vô trong hố, hố này có hàng rào chung quanh giống như hàng rào trước Thiền viện Trí Đức vậy. Nào là kẽm gai, cỏ gai… đủ thứ hết, ở dưới khô ròm, thiếu thốn, lòi xương, sợ sệt… đúng là cay đắng.
Một lúc nào đó, chúng ta sẩy chân lọt vào những hoàn cảnh như vậy mà Phật, Bồ-tát đã từng trải qua nói rằng sanh tử bì lao. Người bệnh nhìn dáng bên ngoài là biết bệnh rồi, như gương mặt đỏ gay, nói hụt hơi là biết áp huyết không ổn hoặc cái bụng đầy hơi… Chữ “bì lao” là mệt mỏi, quá mệt nên bệnh tật hiện ra dáng ngoài. Con đường sống chết này hết sức là mệt mỏi, sanh sanh tử tử, tử tử sanh sanh, không biết bao giờ cùng. Đức Phật, chư vị đã có sự sống trải nói cho chúng ta biết sanh tử bì lao là từ tham dục mà ra. Nếu chúng ta biết tu thì bớt tham dục, nghe đến tham dục tự nhiên thấy hãi hùng. Muốn bớt tham dục không phải là chuyện dễ dàng. Giống như người hút á phiện, một ngày phải bao nhiêu viên, thiếu là không được. Hôm nay có thể hai viên, một điếu thuốc nhưng dần dần ba viên, hai điếu thuốc. Tăng lên tới một lúc bốn năm viên và cả gói thuốc. Cứ như thế mà tăng, tăng từ ảo giác, cảm giác, từ điên đảo cố chấp không sáng suốt của con nghiện.
Quý vị nào có uống cà phê đen thì biết. Hồi nhỏ chưa từng uống cà phê đen, hớp một hớp đầu tiên bị nó hành hạ khổ sở, nhưng bữa nào cũng hớp thì vài tháng sau chưa kịp hớp, chỉ khởi ý thôi là nghe lâng lâng ngoài da, nhột nhột trên tóc trên tai rồi. Ban đầu có thể hai ba hớp cà phê, sau đó cả ly cà phê hoặc sáng một lần, trưa một lần, tối một lần, trước khi đi ngủ một lần. Để làm gì? Để bảo vệ, gầy dựng những ảo giác, cảm giác. Chữ Đa (多) là nhiều, nhiều lớp chồng chất là đa. Chồng chất nhiều ngày, nhiều đời, nhiều lớp, bởi nhiều như vậy nên thành một thói quen, một năng lực. Chữ Đa này có thể dẫn tới một năng lực, chúng ta muốn hóa giải nó rất khó. Kinh nói nó là hơi hướm, chủng tử, đã in ấn rất đậm trong tàng thức. Nhiều người nấu ăn ngon, chỉ cần thấy người khác nấu là biết khéo hay vụng liền. Sao biết được, sách vở nào dạy họ? Vì nhiều đời nhiều kiếp đã làm việc này, chuyện nếm mùi nếm vị đã ghi vào trong óc trong tủy của họ. Do vậy, chỉ ngửi cái mùi đi lệch bản lề là biết không ngon.
Cho nên, từ những ham muốn, những dấy niệm khởi lên, chúng ta không làm chủ được thì dẫn đến sự cay đắng khổ đau. Hòa thượng thường dạy chúng ta phải làm chủ được các dấy niệm của mình. Vừa có một niệm dấy khởi, ta liền biết đây là vọng sẽ dẫn mình vào chốn trầm luân, không theo nó tức là làm chủ được mình. Tôi nhớ có một vị giáo thọ cũng nói “Người tu muốn đừng bị khổ, không chấp nhận làm người đa khổ thì phải làm chủ được các dấy niệm”. Lúc này, tôi chưa biết những dấy niệm là vọng tưởng. Đến khi đi học thiền, Hòa thượng Trúc Lâm dạy mới biết những dấy niệm là mầm mống, là vọng tưởng dấy lên dẫn chúng ta đi đến khổ. Do vậy Hòa thượng dạy phải dừng, phải biết nó là vọng buông đi. Có điều buông được hay không là do mình. Buông được thì hết khổ.
Chúng ta thử nghiệm vào bất cứ một thời thiền nào trong ngày. Khi bắt đầu vào thiền chúng ta cố phát huy cái biết. Biết cái gì? Vừa có một dấy niệm, ta biết đây là vọng động tơ tưởng liền buông. Buông thì sao? Thì thân tâm tự tại. Người buông được thấy rất nhẹ nhàng, tất cả dấy niệm không còn lực kéo. Trong cái buông này, một là biết nó không thật nên mình không theo, hai là nó không đủ lực để dẫn mình đi, thêm nữa là ta nuôi dưỡng được định tuệ hiện tiền.
Trong tu tập cũng như sinh hoạt đời thường, nếu lúc nào cũng nuôi dưỡng, phát huy được tinh thần này thì chúng ta là người thiểu dục. Người thiểu dục không bị cay đắng nhiều, được an vui ngay trong đời này. Như chiều nay đang ngồi yên, thấy trời mát mẻ, nhìn đồng hồ chừng bốn giờ, có người khởi niệm giờ này chợ Long Thành bán chôm chôm ngon lắm, mình phát tâm đi mua chôm chôm về cúng dường đại chúng, chắc quý vị lãnh đạo không rầy rà đâu. Đây là một vọng tưởng. Khởi vọng tưởng lên rồi làm sao nữa? Không lẽ khởi lên một cái là chôm chôm chạy từ Long Thành về đây cho mình, phải khúm núm bạch với quý vị lãnh đạo “Hôm nay con phát tâm cúng dường chôm chôm cho đại chúng, giờ này ngoài chợ Long Thành bán chôm chôm nhiều lắm, xin Thầy cho con mua về cúng dường đại chúng”. Ban lãnh đạo có hoan hỉ cho vị này đi không hay họ nói rằng: Tôn giả ơi! Làm ơn trở lại ngồi thiền giùm đi, muốn mua thì ngồi thiền xong rồi hãy đi. Được trả lời như vậy đương sự cụt hứng liền, theo sau đó là tâm trạng bất an, không vui.
Đến một thời gian nào đó chúng ta mới cảm nhận nó là vọng tưởng đảo điên làm thân tâm không được tự tại. Nhưng trước đó có người nào chặn đứng những đa khổ của mình thì thấy không vui đâu. Thân bất ổn kế đó là tâm bất an. Tâm gồm có cảm thọ, tưởng tượng, phân biệt, cuối cùng là suy nghĩ. Bốn cái này luôn luôn dấy động khi tâm khởi lên một vọng niệm. Trong một lúc mấy anh này cùng hợp tác làm việc. Chúng ta có kinh nghiệm, có năng lực từ sự chỉ giáo của các bậc thầy hoặc từ những kinh nghiệm tu học của mình, anh chàng vọng tưởng nào triệt tiêu thì chúng ta sẽ được an ổn. Dẹp được vọng tưởng thì thành người “thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại”. Tôn giả nào đủ lực triệt hoàn toàn bốn anh này, thì không lực nào sai sử nổi nữa, người đó hoàn toàn an ổn. Huynh đệ có sự sắp đặt tu tập như tôi vừa trình bày thì thấy cuộc đời rất lý thú. Chúng ta nhìn vọng tưởng, biết vọng tưởng và có cách trị vọng tưởng.
Hòa thượng Tôn sư dạy biết rồi buông, đây là một kỹ thuật. Buông riết nó hết. Như bữa nay cô nhà bếp nấu khéo quá, mùi thơm bay lên đầy mũi, tôi ngửi biết mà không thèm gì hết. Tự mình có cách trị vọng tưởng để được thiểu dục, tự tại an ổn. Anh này phải đấm cho anh vài đấm. Đấm là sao? Tưởng tượng không thật, nói đấm là có trí tuệ mới đấm được. Không có trí tuệ thì nó đấm mình chứ không phải mình đấm nó đâu. Phải có trí tuệ mới trị phá được mấy anh này. Trị được vọng tưởng rồi thấy lý thú vô cùng. Cho nên huynh đệ thấy có hành giả ngồi thiền tự nhiên gương mặt như mỉm cười. Thật sự người đó đang chiến đấu, đang nắm cổ mấy anh vọng tưởng dẫn dắt chạy ngược, chạy xuôi trong vòng luân hồi sanh tử, nhốt và thảy mấy anh đi. Người đó đang chiến thắng nên có niềm vui và nở nụ cười.
Trong kinh nói đức Phật đưa cành hoa lên ngài Ca-diếp nhận được ý chỉ, chúm chím cười. Đức Phật đưa cành hoa lên không nói, ngài Ca-diếp ngồi dưới kia cũng không nói gì hết, mọi người cũng không nói nhưng ngài Ca-diếp chúm chím cười. Cũng vậy chúng ta tu hành, trị được những vọng tưởng cũng sẽ mỉm cười. Đó là niềm vui, là thành quả của sự phấn đấu. Niềm vui này âm thầm sâu lắng và có lực dụng, đó là lực dụng của tỉnh thức. Bấy giờ hành giả thấy rỗng rang, sáng suốt, trong tâm luôn biết rõ ràng gọi là “liễu liễu thường tri”. Có niềm vui rồi thì những sự đau nhức về thân, những bệnh tật về tâm sẽ được khắc phục. Chúng ta là chủ nhân, không bị lệ thuộc bởi những thứ đó.
Bao nhiêu lâu rồi thân tâm bị lệ thuộc hoàn toàn vào hoàn cảnh bên ngoài nên mất trắng, chúng ta không tìm ra manh mối tâm chân thật của mình. Các thầy có kinh nghiệm, nhận và sống được với tâm thật rồi, dạy chúng ta tu tập từ từ nhận ra rồi sống, kiên trì quyết tâm trong từng bước công phu, nhất định sẽ vào được chỗ này. Lúc đầu rất gian nan, giữ gìn khó khổ không như ý, nhưng cố gắng chịu đựng một thời gian, sau đó sẽ chứng nghiệm lời dạy của Phật Tổ không sai. Khi nào chúng ta biết vọng tưởng không thật không theo nó thì mới làm chủ được. Ngược lại còn chấp nhận, còn bị lệ thuộc, bị động bởi những thứ ấy thì khó mà làm chủ. Đây là một loại khó khăn vô hình, nhưng nếu kiên quyết, đầy đủ ý chí, dứt khoát thì sẽ yên ổn tự tại.
Hòa thượng nói đã là vọng tưởng mà còn phân biệt, cảm thọ, tưởng tượng này kia là bị vọng tưởng dẫn. Đôi khi mình cũng thưa thầm với Thầy rằng, con có cái biết dù ở trong cảm thọ con cũng biết rõ ràng, tưởng tượng con cũng biết rõ ràng, như vậy không có cái nào con lầm hết. Con chụp cổ bốn đứa này, thảy nó ra ngoài. Nói nghe như dễ, nhưng hết đợt sóng vọng tưởng này là những đợt vọng tưởng khác, chúng cứ tiếp tục trồi lên, cho nên công phu tu hành ở giai đoạn đầu có nhiều cay đắng, nhiều điều không như ý.
Tôi sống gần gũi với hàng trăm ông tiểu nho nhỏ, vừa lớn lên năm sáu tuổi, mười hai, mười lăm tuổi… có đủ. Nhìn từng gương mặt, từng sự cảm nhận, từng phúc duyên của mỗi chú tiểu, tôi cũng có một cảm giác, cũng phát hiện những điềm báo của từng chú tiểu như thế nào. Không phải như thầy bói nhưng cũng biết được. Ví dụ có một buổi chiều, tất cả các tiểu đều đi ăn cơm. Buổi cơm chiều ở thiền viện nhẹ nhàng không giống như buổi trưa hoặc buổi sáng, do vậy có chú đi không xếp hàng trật tự. Người xưa nói thức ăn chiều là “dược thạch”, có lẽ mấy chú thuộc từ này, nên buổi sáng đi nghiêm chỉnh, buổi trưa cũng rất nghiêm trang, nhưng buổi chiều lại lăng xăng. Hai ba chú đi một chùm, có khi đi rồi đứng lại, đi tới đẩy qua, đẩy về. Đó là gì? Vì các tiểu biết trước rằng bữa ăn chiều không phải là bữa ăn quan trọng, do không quan trọng nên không phải mặc áo đàng hoàng và đi cũng không có hàng ngũ, lúc ăn có thể vừa ăn vừa nói chuyện. Có khi Sư ông thấy nhưng vẫn cười không rầy là biết buổi ăn chiều không quan trọng. Bởi không quan trọng nên mấy chú không đi ăn cũng được, nhưng với điều kiện tối đừng có ăn vụng. Không đi ăn mà tối chịu yên ngủ, sinh hoạt như tất cả huynh đệ thì không có vấn đề gì. Trái lại, không đi ăn mà tối người ta ngồi thiền, học bài còn mình đi kiếm mì gói, đồ ăn riêng thì không được, đó là phạm trai cấm ăn chiều, bị la quở rất nặng.
Tôi muốn nói cái gì cũng có điềm báo, như buổi ăn chiều không quan trọng nên mấy chú sinh hoạt như vậy. Nếu buổi chiều cũng tụng kinh nghiêm chỉnh, cũng thọ trai này kia như buổi trưa hoặc buổi sáng thì mấy chú không dám như thế. Tôi ngồi mấy chú đi ngang, các tiểu cúi đầu chào Sư ông, Sư ông. Tôi cũng có cảm nhận mấy chú biết bữa ăn nhẹ bình thường tôi rất hoan hỉ, không rầy rà gì khi mấy chú cười giỡn hoặc đi không ngay hàng thẳng lối.
Trở lại công phu tu hành, có khi chúng ta rất nghiêm chỉnh nhưng cũng có khi phải thong thả một chút. Phương pháp chăn trâu mà Hòa thượng Trúc Lâm dạy là: Khi con trâu không chịu đi theo lối, theo hàng, theo sự hướng dẫn của mục đồng thì cột mũi nắm dây và ra roi, kéo nó đi thẳng theo đường lối. Tuy nhiên, một khi nó đã đi thẳng, đi thuần rồi mà chúng ta cứ đặt roi trên người nó thì chắc có lẽ nó chán mình, húc mình chết, phải không? Vọng tưởng cũng vậy, nó là vô hình ở đâu không biết nhưng nếu chúng ta khủng bố nó quá thì nó sẽ hiện ra đầu trâu, mặt ngựa chiến đấu, phản đối mình. Khi nó phản đối dữ dội thì chúng ta bó tay thôi. Ví dụ trong các hành giả đây, có vị bây giờ chán quá không muốn tu nữa. Lúc ấy mẹ cha, anh chị khuyên ráng tu nghe con, ở ngoài đời khổ lắm. Khuyên thì khuyên chẳng ăn thua gì, cũng giống như con trâu bị tấn công, đẩy nó vào trong cái thế cùng cực, nó quay trở lại hại mình.
Thật sự khi điều được vọng tưởng thuần rồi thì chúng ta an lạc. Có người thắc mắc “Thưa Thầy, không biết hết vọng tưởng rồi con làm gì nữa đây?” Hết vọng tưởng rồi thì sống với tâm chân thật, chứ có sao đâu. Nhưng trong chúng ta đây không có người nào đã hết vọng tưởng. Tuy nhiên chỉ thấy rằng trong đời thường của mình, vị nào tu chừng mười năm, hai mươi năm vọng tưởng cũng giảm dần. Những vị mới vào tu khoảng chừng ba, bốn tháng đến một năm thì vọng tưởng tương đối khép. Chỉ ai mới vào chừng một, hai tháng thì những niệm tưởng, hình ảnh, sự kiện trên bước đường đã qua trong phố thị nhiều lắm, khỏe lắm, nó chưa chịu ăn chay niệm Phật với vị ấy đâu, nên điều không nổi.
Người đã tu năm năm, mười năm thì vọng tưởng như thế nào? Người tu một năm, hai năm vọng tưởng như thế nào? Người tu một vài tháng vọng tưởng như thế nào? Chúng ta phải biết rõ, nhất định chăn cho được con trâu điên của mình. Bao giờ con trâu trắng, thuần thì chúng ta không cần phải chăn, dẹp roi mở dây cho nó nghỉ ngơi. Bởi vì bây giờ nó cũng không đi đâu ngoài sự sắp đặt của mình. Những con trâu mới được điều phục, nhìn trong hình thấy nó chỉ mới trắng hai chân trước, nguyên từ đầu đến ngang bụng, lưng đến đuôi nó đen thui. Ở trong giai đoạn này, nhất định sự điều phục của mình phải giữ lề, cầm dây, nắm roi cho chắc, hà huống là những con trâu mới vừa thấy dấu, chưa biết nó ở đâu, chỉ nghe mênh mông đất trời tiếng ve sầu buồn tẻ. Ồ, những vọng tưởng này còn khỏe lắm.
Những năm trước đây, một buổi trưa thức dậy tôi ra ngồi ngoài ghế, một cơn gió cuối mùa thổi qua, lúc đó tôi cảm nhận được gió tết. Tôi ngồi một mình không có ai hết, nhìn quanh quất thấy hình ảnh của Sư phụ. Tự nhiên tôi nhớ lại hồi khoảng mười một, mười hai tuổi đi chơi với bạn bè ở quê hoặc những người trong chùa, rồi cảm nhận nắng, gió trong khung trời như vậy, chợt có niềm vui nhè nhẹ v.v... một dọc dài vọng tưởng không dừng được. Chợt nhớ một người lúc cận tết bị bệnh sổ mũi, hai lỗ mũi thò lò hai dây mũi xanh, thấy mà gớm. Sổ mũi cảm lạnh ho hen vậy đó mà cứ đi ngoài trời, ngoài nắng nên bệnh càng ngày càng tăng. Lúc đầu ho nhè nhẹ nhưng sau ho sâu, ho lâu. Cảm lậm trong bụng, trong tim, trong phổi.
Ngồi nhớ lại thời đó đi chơi chỗ nào, có mấy đứa nhỏ như mình bị bệnh cảm ho và hình ảnh hai dây mũi xanh thò lò chảy mấp mé xuống môi. Hồi nhỏ vui lắm, chẳng phải lo sợ người ta thấy dơ rồi chê mình. Mũi chảy thì chảy mà đi chơi thì đi chơi, ai la cứ la, đi cứ đi. Thật là hoan hỉ sung sướng vô cùng, quả thật thiên thần của thuở tuổi bé thơ vậy. Từ một cơn gió bấc mà tôi ngồi nhớ cả một thời ấu thơ. Điều này cho thấy một khi chúng ta đã huân chủng tử thì nó nằm ngủ trong tiềm thức, bao giờ đủ nhân duyên nó chợt bùng lên, sống dậy. Như một vệ tinh ghi nhận sự việc khoảng cách thời gian ba mươi năm, sau lại hiện rõ chỉ trong một niệm. Trong kinh Phật nói đó là một chúng sanh mê muội và bị trôi giạt trầm luân trong bể khổ nhiều đời, nhiều kiếp. Cho nên tu là tháo gỡ những thứ đó, làm chủ hoàn toàn mới có thể nói là tự tại an ổn.
Như tôi đã nói là thộp cổ từng đứa để vô trong mấy cái lon, mấy cái hộp kẹo rồi thảy nó ra ngoài kia, thảy thật xa và có khi lóc hết những thứ đó nhưng cũng chưa ăn thua gì đâu. Nó hình thành núp đâu đó trong đầu, cho nên cần hiện là hiện ra. Khi hiện ra nó có một sức tác động, ví dụ những gì thư thả nhẹ nhàng thì nét mặt của chúng ta cũng thư thả nhẹ nhàng. Những gì hơi tăm tối thì nét mặt hiện ra u buồn tăm tối. Tóm lại, nó làm cho chúng ta mất đi sự an lạc trong giây phút hiện tại, đôi khi rất cay đắng. Hồi xưa, chúng ta chưa biết nó là vọng tưởng làm cho mình điên đầu, dẫn dắt hoặc cột trói mình đi tới chỗ khổ sở, bởi chưa biết cho nên chấp nhận nó. Nó kêu đi đâu chúng ta đi đó. Tới khi được Hòa thượng Trúc Lâm chỉ cho biết đó là vọng tưởng, nó dẫn dắt chúng sanh đi trong luân hồi sinh tử nhiều đời nhiều kiếp, bây giờ phải buông bỏ, chúng ta mới chịu quán chiếu.
Quán chiếu tức là luôn luôn chiếu soi, như người đi đâu cũng mang theo kiếng chiếu yêu, để soi thấu mấy con yêu tinh vọng tưởng. Ngày xưa có câu chuyện mang tên “Cửa tùng đôi cánh gài”. Một câu chuyện được giới tu sĩ cũng như Phật tử rất hâm mộ. Câu chuyện nói về một nhân vật được thầy cho xuống núi và trao cho cái “Kiếng mê ngộ” và dạy phải luôn luôn chiếu soi. Ông là một tráng sĩ năng nổ, thường lấy kiếng chiếu vào mọi người, nếu thấy họ bị quỷ ốp thì gỡ con quỷ ra giùm, thấy họ đang khổ đau thì tìm cách an ủi cho họ vui. Tâm nguyện và sự chỉ giáo của thầy tổ là như vậy, cho nên nhân vật này cứ đi chiếu soi tất cả mọi người.
Người này chỉ đưa kiếng chiếu soi bên ngoài mà không xoay ngược trở lại ngay chính mình. Một thời gian quá mỏi mệt, anh ta tìm về Thầy Tổ. Vừa về đến cổng chùa có mấy sư huynh, sư đệ đón và dặn rằng “Bây giờ sư phụ già lắm đến thăm sư phụ phải có giờ giấc. Huynh đã làm được những thành quả gì hay đẹp thì trình cho sư phụ nghe, còn những gì bất như ý không yên thì đừng nói”. Mấy huynh đệ nói chuyện tới giờ gần lên thăm sư phụ, vị sư đệ hỏi cái kiếng của sư huynh đâu lấy ra xem. Bây giờ sư huynh thử lấy kiếng soi lại bản thân trước khi gặp thầy xem như thế nào. Ông quay kiếng xoay lại thì thấy con rắn độc le lưỡi, hai mắt đỏ ngầu. Ông quăng kiếng la lên rồi bỏ chạy.
Đó là gì? Là từ lâu chiếu soi ra mà không tự quán chiếu lại mình. Câu chuyện thể hiện đạo lý là người tu thì phải chiếu soi lại chính mình. Thông thường chúng ta hay chiếu ra mà không soi lại chính mình. Cuối cùng có người nhắc nhở mới nhìn lại thì mình đã biến chất, đã đánh mất tất cả những gì tốt đẹp nhất của tâm ban đầu. Đây cũng là lời nhắc chư huynh đệ, trong đời sống hàng ngày chúng ta nắm vững chủ trương đường lối tu hành, đó là nhắm từ ngay nơi mình. Chiếu soi lại để biết rõ chúng ta như thế nào, rồi áp dụng trị những bệnh tật của mình cho bình phục. Chiếu ra thì cũng chiếu nhưng luôn nhớ ở ngoài là không thật, quan trọng là rọi vào chính mình để trị bệnh tham sân tật đố… Gầy dựng nếp sống yên vui, hài hòa, hạnh phúc. Giữa huynh đệ có khi chúng ta cũng chiếu nhưng chiếu để xây dựng nhau đi lên chứ không phải vì moi móc, tỵ hiềm nhau. Khi chiếu ra thấy trên mặt huynh đệ có cái gì, rồi rọi lại mình coi trên mặt mình đang có cái gì. Nếu thấy huynh đệ có cái gì hay thì chúng ta tiếp thu, học hỏi, hành trì phát huy cho tốt. Soi rọi lại mình để thấy những vết nhọ dơ bẩn còn dính trong tâm, thì lau rửa cho sạch sẽ. Biết cách điều hòa như vậy nhất định huynh đệ sẽ tu tiến.
Điều giác ngộ thứ hai, Phật Tổ dặn chúng ta bớt đi những ham muốn thế gian, hướng ham muốn thành ý tưởng tu hành và làm chủ được mình. Những ham muốn quái gở sẽ đưa con người đến cay đắng khổ đau, vì vậy không nên theo đuổi nó. Không phải Phật không cho chúng ta ham muốn, mỗi thiền sinh đều có quyền ham muốn như ham muốn tu giỏi, ham muốn mình là một người tốt. Những ham muốn này trong giai đoạn ban đầu học đạo rất cần thiết, nó sẽ giúp chúng ta tiêu hóa những cù cặn, u nhọt còn tồn trữ, dính mắc từ bao lâu nay. Chừng nào những cù cặn đó giải trừ hết thì sự ham muốn này cũng bỏ luôn. Lúc đó thân và tâm đều tự tại, chúng ta đã được giác tri.
Biết ham muốn nhiều là khổ để giảm thiểu, ngăn ngừa những vọng động ngược xuôi khiến con người bị vướng mắc. Như vậy chúng ta sắp đặt được đời sống an ổn trong hiện tại. Khi huynh đệ xin về đây tu học, tôi nói là sống hài hòa với đại chúng, siêng năng tu học với những chương trình đã sắp đặt của các vị có trách nhiệm. Lúc nào cũng vui vẻ, bình thường là huynh đệ đã thành công. Đến một lúc nào đó, huynh đệ có kinh nghiệm, bước lên được một bước đầy đủ giới đức trang nghiêm, thì chúng ta sẽ bước sang giai đoạn mới. Bây giờ đại chúng cứ sống bình thường, hài hòa, an vui, tích cực siêng năng tu học. Tu học tức là giờ ngồi thiền, giờ tụng kinh, giờ làm việc, giờ thọ trai, tất cả mọi sinh hoạt trong thiền viện đều tham dự đầy đủ. Huynh đệ sống bình thường, mỗi ngày qua không mong cầu, không dấy niệm, không tưởng tượng, không để cho dính mắc bất cứ thứ gì, quả thật đây là một nếp sinh hoạt lý tưởng của các thiền sinh trong thiền viện.
Tôi nói mạnh như thế để huynh đệ có được những bước thật vững, thật mạnh trong chương trình tu học của mình. Chúc quý vị tinh tấn và được nhiều an lạc.
Thích Nhật Quang