Selasa, 21 Januari 2014

Linh hồn chỉ là ảo tưởng (10)

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bậc thầy của chư Thiên và loài người.
Khi Đức Phật Thích Ca còn sống, Ngài còn chẳng cứu nổi dòng họ Thích của Ngài thoát khỏi bị vua Lưu Ly tàn sát. Cho nên, chúng ta đừng cầu xin ở Ngài một điều gì cả, Ngài chỉ có một "công thức" giúp chúng ta liễu thoát khỏi luân hồi sinh tử, nếu có khát vọng, chúng ta hãy nương theo đó mà thực hành... và chỉ có vậy thôi.
Một số dữ kiện về cuộc đời Đức Phật Thích Ca
Đức Phật Thích Ca xuất thân là Thái tử Tất Đạt Đa (Gotama), là con một của vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma-da thuộc dòng họ Thích Ca, Ngài sinh năm 1887 trước Tây lịch ở thành Ca-tỳ-la-vệ thuộc Nepal ngày nay. 
(Chúng ta lưu ý, những vị Phật như: A Di Đà, Di Lặc, Phật Dược Sư, Phật Mẫu Chuẩn Đề, hay các vị Bồ tát như: Phổ Hiền, Văn Thù Sư Lợi, Thiên Thủ Thiên Nhãn, Địa Tạng, Đại Thế Chí, Quán Thế Âm là những vị Phật và Bồ tát giả tưởng, không có thực, do phái Phật giáo Đại thừa dựng lên dành cho những người tu hành theo tha lực, còn con đường tu hành của Phật Thích Ca là con đường tự lực). 
Thái tử Tất Đạt Đa sinh được 7 ngày thì mẹ Ngài - Hoàng hậu Ma-da mất.
Năm lên 16 tuổi Thái tử kết hôn với công chúa Da-du-đà-la.
Năm 29 tuổi, vào một đêm trăng sáng, Tất Đạt Đa vượt tường thành tìm đường xuất gia học đạo, bỏ lại công chúa Da-du-đà-la và con trai mới sinh là La-hầu-la.
Ngài thành đạo năm 35 tuổi. Từ đó trở đi, Ngài dành hết tâm huyết đi truyền đạo khắp vùng Đông Bắc của Ấn Độ. Ngài nhập niết bàn năm 1807 tr.TL, thọ 80 tuổi.
Về cuối đời, vua Tịnh Phạn được Đức Phật chỉ dạy con đường giải thoát, sau 7 ngày sống trong hoan lạc của sơ thiền, đức vua chết và siêu thoát lên cõi thiên vô sắc giới.
Vì hiền thiện và đức hạnh nên Hoàng hậu Ma-da khi chết nhập vào cung trời Đâu suất (cõi thiên).
Con trai Đức Phật là La-hầu-la, theo Ngài tu hành từ lúc lên 7, chứng đắc quả A la hán và nhập niết bàn khi 40 tuổi.
Vợ Ngài, công chúa Da-du-đà-la, về sau cũng xuất gia và chứng đắc quả A-la-hán. 
Phần nhiều những người đi theo Đức Phật, dưới sự huấn luyện của Ngài đều chứng đắc quả vị A-la-hán và nhập niết bàn.
Sau khi vua Tịnh Phạn băng hà, Đức Phật và con trai La-hầu-la đi tu, các tinh túy của dòng họ Thích Ca cũng theo Ngài đi tu hành, triều đại của dòng họ Thích Ca dưới sự trị vì của Thích Ma Ha Nam đã bị vua Lưu Ly đem quân tàn sát hết. Bảy ngày sau khi chiến thắng trở về qua một con sông, vua Lưu Ly và quân lính bị nước cuốn trôi. Với tội ác tàn sát dòng họ Thích Ca, vua Lưu Ly phải rơi vào địa ngục A-tỳ.
Đức Phật Thích Ca được người đời tôn xưng là bậc: đại hùng, đại lực, đại bi.
Đại hùng vì Ngài từ bỏ hứa hẹn ngai vàng, vợ đẹp con thơ, vàng bạc châu báu, cung tần mỹ nữ và những dục lạc thế gian, đi tìm cho mình và nhân loại con đường giải thoát khỏi khổ đau, luân hồi sinh tử.
Đại lực là tự mình tìm thấy chân lý trên con đường giải thoát mà không trông cậy vào ai.
Đại bi là Ngài có tình yêu thương tất cả chúng sinh mà không phân biệt vua chúa hay kẻ ăn mày, mọi tầng lớp giàu sang hay nghèo khó…
Thông điệp của Đức Phật gửi lại cho chúng ta trên con đường thực hành tâm linh là: “Hãy thắp đuốc lên tìm đường mà đi, hãy trông cậy vào chính mình, đừng trông cậy vào nơi đâu, đừng trông cậy vào nơi ai khác”.
Nguyễn Minh Sơn
(7-12-2013)

Linh hồn chỉ là ảo tưởng (9)

Đức Phật nói: “Ta không thể ban phúc hay giáng họa cho ai”, cho nên mỗi cá nhân phải tự chịu trách nhiệm về mọi hành vi tạo tác từ thân, khẩu, ý của mình, ta không thể trông đợi hay trốn lánh, chúng ta phải tự bước đi bằng đôi chân của mình, đừng nhờ cậy vào Phật, thánh, thần…
Những khác biệt giữa chúng sinh cõi thiên và thân trung ấm
Qua tìm hiểu trong sách báo, bài viết của phương Tây lẫn phương Đông, tác giả thấy những khác biệt giữa cảnh giới của chúng sinh cõi thiên và nơi mà những thân trung ấm bám víu như sau:
a) Cõi thiên:
-Cảnh giới thanh nhẹ, là một trường ánh sáng chói lòa, rực rỡ.
-Nơi chứa đựng kho tàng kiến thức rộng lớn (so với họ, kiến thức của loài người chỉ như một hạt cát trong sa mạc).
-Chúng sinh cõi thiên di chuyển rất nhanh bằng ý niệm, không bị hạn chế bởi không gian và thời gian.
-Sống bằng sở đắc, tự do tự tại không bám víu ngoại cảnh.
-Không có nhu cầu ăn, uống, y phục…
-Giao tiếp với nhau bằng tần số rung động mà không dùng lời nói.
-Do sức mạnh tư tưởng của chúng sinh cõi thiên nên cảnh vật hiện hữu luôn thay đổi.
-Họ luôn học hỏi trau dồi tri thức, kinh nghiệm để chuẩn bị cho tái sinh trở lại làm người. 
………………….
b) Nơi thân trung ấm bám víu:
-Cảnh giới mờ ảo không rõ sáng tối, thấp, nặng nề, uế chược (chúng ta thường nghe nói mời hay gọi vong “lên” chứ không phải “xuống” là vì vậy).
-Không chứa đựng tri thức, kiến thức…
-Họ di chuyển dật dờ, bám theo ngọn cỏ, lối gió, mé nước… 
-Tuy không có thân xác vật lý nhưng vẫn khao khát được ăn uống, y phục, nhà cửa, xe cộ, dâm dục… thông qua sự hưởng thụ khoái cảm bằng tưởng tượng.
-Giao tiếp với nhau bằng tưởng tri.
-Thích quần tụ với nhau giữa những người thân thích hay nhóm người (cộng nghiệp).
-Không có điều kiện học hỏi để trau dồi kiến thức, tri thức.
…………
Thân trung ấm chỉ là giai đoạn đợi nghiệp thức dẫn đi đầu thai vào lục đạo, chứ không phải là linh hồn chờ cơ hội đi tái sinh, người chết mang thân trung ấm càng chần chừ, bám víu chừng nào càng thiệt thòi cho tiến trình tái sinh trở lại làm người chừng ấy. Biết vậy, ngay khi còn sống, chúng ta cũng nên chẩn bị tâm lý thật kỹ lưỡng, để chọn lựa cho mình một con đường tốt nhất có thể.
Phần kết
Qua những phân tích trên, chúng ta nhận thấy rằng không hề có linh hồn bất tử và cảnh giới cho linh hồn bất tử. Chỉ vì đề cao ái ngã (yêu bản thân mình) và tham đắm trong danh vọng địa vị, trong tiền bạc vật chất, trong sắc đẹp dâm dục, tham lam trong ăn uống, ngủ nghỉ… nên chúng ta nhận lầm ba đặc tánh, thân ngũ uẩn hay ý thức là linh hồn, từ đó tưởng tri ra có một cảnh giới cho linh hồn tồn tại, hòng níu giữ những dục lạc vô thường, tạm bợ của thế gian.
Nếu chúng ta luyến ái gia đình, vợ con, cháu chắt… tưởng tượng ra sự nối dõi những hư danh mơ hồ phi thực tế mà cố bám víu vào thân trung ấm, rồi coi đó là linh hồn thường hằng bất biến, thì rất thiệt thòi cho chúng ta trên con đường tái sinh trở lại làm người và con đường thăng tiến về tâm linh trong tương lai.
Trong lục đạo thì cõi người là chủ đạo, vì chỉ ở cõi người, chúng sinh vừa có thể gieo các nhân thiện hay nhân ác, từ đó thọ lãnh quả báo vui sướng hay đau khổ, cõi người còn có trí tuệ để phân biệt được thiện hay ác. Còn ở các cõi khác như thiên hay thần, chúng sinh ở 2 cõi này chỉ có một chiều hướng là thụ hưởng những phúc báo. Ở 3 cõi còn lại: súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục thì chúng sinh một chiều chịu quả báo đau khổ, nên rất khó để có năng lực phân biệt được đâu là thiện, đâu là ác! 
Những chúng sinh trong lục đạo: cõi thiên, cõi thần (Atula), súc sinh, ngạ quỷ hay địa ngục, họ cũng đang song hành bên ta, nhưng cũng như ta họ có con đường riêng của họ, ta không can thiệp được vào thế giới của họ và ngược lại, họ cũng không thể can thiệp vào thế giới của chúng ta đang sống, ta có sinh có diệt, họ cũng có sinh có diệt, cho nên chúng ta chớ ảo tưởng mà cầu xin ở họ điều gì.
Đức Phật nói: “Ta không thể ban phúc hay giáng họa cho ai”, cho nên mỗi cá nhân phải tự chịu trách nhiệm về mọi hành vi tạo tác từ thân, khẩu, ý của mình, ta không thể trông đợi hay trốn lánh, chúng ta phải tự bước đi bằng đôi chân của mình, đừng nhờ cậy vào Phật, thánh, thần… Luật nhân quả rất công bằng, nếu ta có những ý nghĩ, lời nói, việc làm thiện của thân, khẩu, ý thì chúng ta nhận quả báo thiện với cuộc sống sướng vui, còn bằng ngược lại, chúng ta phải lãnh nhận hậu quả đau khổ khôn lường ngay trong hiện tại và trong cả tương lai.
Trong kinh Pháp Cú Phật dạy:
“Không trên trời, dưới biển
Không lánh vào động núi
Không chỗ nào trên đời
Trốn được quả ác nghiệp”.
Nguyễn Minh Sơn

Linh hồn chỉ là ảo tưởng (8)

Chúng ta nên biết: những đứa con trai hay gái do chúng ta sinh ra, chúng chỉ là con cái ta trên danh nghĩa, chúng có nghiệp riêng, nhân quả riêng của chúng, chúng ta chỉ có một đứa con duy nhất, đích thực đó là nghiệp của chúng ta, cho nên Đức Phật nói: “Chúng ta là chủ của nghiệp, sinh ra nghiệp và chúng ta cũng là đứa con thừa tự của nghiệp”.
Được thân người khó…
Một nghiệp thức muốn tái sinh trở lại làm người phải tìm cơ hội ở một đôi nam nữ nào đó (cha mẹ trong tương lai) có hoạt động giao cấu, người nữ đang trong những ngày có thể thụ thai và một điều tối quan trọng là nghiệp thức đó phải có đủ nhân duyên tương ưng với cha mẹ tương lai của mình. Cho nên ta thấy nhiều trường hợp xảy thai, bong thai, xổ thai, thai lưu, chết non… là do các nghiệp thức ấy không có đủ nhân duyên để tương ưng với cha mẹ tương lai. Do vậy, chúng phải tự đào thải, đi tìm cơ hội khác.
Ngay khi tinh trùng của người nam xâm nhập vào trứng của người nữ thì ngay lập tức nghiệp thức cũng gá vào đó mà tái sinh, lúc này thân trung ấm tan biến và sự sống mới bắt đầu hình thành ở bào thai, bản ngã cũ chấm dứt hoàn toàn, tất cả những ký ức về đời trước mất hết. Hài nhi từ nay sẽ có cha mẹ mới, hình hài mới, tên gọi mới, dòng họ mới và một số phận mới.
Khi những nghiệp thức nương tựa vào tinh cha huyết mẹ tái sinh, theo thời gian chúng phát triển theo nghiệp quả từ kiếp trước, vì vậy mà ta không thấy lạ khi có bậc cha mẹ thông minh, tài giỏi nhưng con cái đần độn, ngu dốt và ngược lại... Hay những đứa con trong cùng một gia đình, có đứa thì cao to có đứa lại thấp bé, có đứa ăn nói dịu dàng có đứa lại nóng nảy, cáu gắt… Trí tuệ cũng không giống nhau, có người có học thức, đi làm quan, nhưng có kẻ đi cày thuê vác mướn… Đều là do nhân quả thiện, ác của từng nghiệp mỗi con người trong quá khứ.
Ngoài ra, sự quan hệ giữa cha mẹ và con cái còn có bốn loại: báo ơn, báo oán, đòi nợ và trả nợ.
Trong vô lượng kiếp quá khứ nào đó, nếu con cái đã từng kết duyên với cha mẹ thì có thể đời này do nhân quả thiện ác họ sẽ gặp lại nhau. Nếu là thiện duyên thì con cái đến để báo ơn, để đền đáp lại những gì mà cha mẹ đã làm cho chúng trong tiền kiếp. Đây chính là “phụ từ, tử hiếu” (cha hiền, con hiếu thảo). Nếu là ác duyên thì chúng đến để đòi nợ hoặc báo oán, bởi vì kiếp trước các bậc cha mẹ này đã gây ra đau khổ cho chúng. Trường hợp này gọi là “oan gia nghiệp báo”. 
Đức Phật thường khuyên: “Các con hãy tự thương lấy chính bản thân mình”. Vì sao Đức Phật, ngoài khuyên chúng ta yêu thương cha mẹ, anh em, đồng loại, chúng sinh khác, Ngài còn khuyên chúng ta hãy tự thương chính bản thân mình? Chúng ta phải hiểu rằng: Ngài khuyên như vậy là khuyên chúng ta hãy thương lấy nghiệp của chúng ta. Chúng ta nên biết: những đứa con trai hay gái do chúng ta sinh ra, chúng chỉ là con cái ta trên danh nghĩa, chúng có nghiệp riêng, nhân quả riêng của chúng, chúng ta chỉ có một đứa con duy nhất, đích thực đó là nghiệp của chúng ta, cho nên Đức Phật nói: “Chúng ta là chủ của nghiệp, sinh ra nghiệp và chúng ta cũng là đứa con thừa tự của nghiệp”.
Có những người khi có chức quyền họ tham ô, tham nhũng, trộm cắp tiền bạc, tài sản của nhà nước mà phải chịu vòng lao lý, tù tội. Trong tù họ tự an ủi, biện minh: “hy sinh đời bố củng cố đời con”. Nhưng họ đâu có biết rằng: đồng tiền có mặt trái mặt phải, tuy vô tri vô giác nhưng đồng tiền cũng có nghiệp thiện, nghiệp ác. Họ làm vậy là bản thân họ phải chịu hai lần trừng phạt: một là của luật pháp thế gian, hai là sự trừng phạt của luật nhân quả. Những đứa con của họ tiêu dùng đồng tiền bất chính ấy vô tình cũng phải chịu tội tòng đảng trộm cắp và cũng phải trả giá theo luật nhân quả. Với suy nghĩ vô minh như trên, họ đã tự hại chính nghiệp thức tái sinh trong tương lai của họ, trong hiện tại họ tự làm khổ mình, khổ người mà không hay.
Trong kinh Tăng Chi Bộ Phật dạy: “Này các Tỷ kheo, có hai loại tội. Thế nào là hai? Tội có kết quả ngay trong hiện tại và tội có kết quả trong đời sau. 
Thế nào là tội có kết quả ngay trong hiện tại? Này các Tỷ kheo, khi thấy nhà vua bắt được kẻ trộm, kẻ vô lại, liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ bị đánh bằng roi cho đến bị chặt đầu. Thấy vậy, người ấy liền suy nghĩ: Do làm ác nghiệp nên mới bị các hình phạt như vậy. 
Nghĩ vậy, người ấy sợ hãi tội lỗi trong hiện tại. 
Và này các Tỷ kheo, thế nào là tội có kết quả trong đời sau? Ở đây, có người suy xét như sau: Quả báo dị thục (quả báo của cái nhân thiện hay ác đã tạo ra từ đời trước) của thân, khẩu, ý ác, sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục. Nghĩ vậy, người ấy sợ hãi tội lỗi trong đời sau. 
Do vậy, này các Tỷ kheo, cần phải học tập như sau: Chúng ta phải sợ hãi đối với tội có kết quả hiện tại và trong đời sau. Chúng ta phải thấy rõ sự nguy hiểm và tránh xa các tội”. 
Với nhà Phật, không có quan niệm người này phải có trách nhiệm nối dõi cho người kia (con cháu nối dõi tông đường). Ai cũng có nghiệp riêng, nhân quả riêng, con cái nương tựa cha mẹ mà ra đời cũng như cha mẹ nương tựa ông bà, ông bà nương tựa cụ kỵ… Cứ vậy, chúng ta đồng lần nương tựa nhau mà tái sinh trong vòng luân hồi sinh tử. Trong vô lượng kiếp, ta có vô lượng cha mẹ, ta có vô lượng vợ chồng, ta có vô lượng con cái… Kiếp này ta là con của nhà này, mang họ này, kiếp sau ta là con nhà khác, mang họ khác, kiếp này ta là nam, kiếp sau ta là nữ, kiếp này ta giàu có, kiếp sau ta nghèo khổ… Tùy theo nhân quả thiện ác, con người cứ vậy mà trôi lăn trong lục đạo.
Vào ngày Vu Lan báo hiếu (15-7 ÂL) của đạo Phật, ngoài hồi hướng công đức cho cha mẹ đời này, chúng ta còn phải hồi hướng công đức cho vô lượng cha mẹ trong vô lượng kiếp về trước đã cho ta nương nhờ thân xác để tái sinh, thế mới là tròn quả vị.
Đức Phật dạy: “Được thân người khó, khó như con rùa mù nổi trên mặt đại dương, cả ngàn năm may ra mới vớ được một bọng cây”. 
Đức Phật dạy “khó” là vì cơ may tái sanh làm người rất hiếm hoi như con rùa mù đi tìm bọng cây trên mặt đại dương bao la hay ít ỏi như sừng bò vậy và chúng ta nên hiểu “khó được” là nói tới tấm thân trong kiếp kế tiếp, chứ không phải cái thân xác hiện tại, vì hiện tại chúng ta đã và đang được rồi, nhưng mai rày thân hoại mạng chung, chúng ta có được tái sanh trở lại nữa không mới là vấn đề đáng suy nghĩ. Lại nữa, được thân người phải đầy đủ giới đức làm người, biết tàm quý, chứ nếu không trau dồi giới đức, không liêm, không sỉ thì chúng ta đang sống mà chẳng khác chi cái xác chết di động!
Cũng chỉ có ở cõi người chúng ta mới có đủ cả thân xác lẫn trí tuệ để thiền định và thiền quán phá vỡ vô minh và ái dục hòng liễu thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Cho nên, mỗi chúng ta hãy nắm bắt lấy cơ hội hiếm hoi này, kẻo uổng phí.
Nguyễn Minh Sơn

Linh hồn chỉ là ảo tưởng (7)

Trong sáu nẻo luân hồi chỉ có cõi người và cõi súc sinh là có tấm thân vật chất, còn cõi thiên, thần (Atula), ngạ quỷ, địa ngục chỉ là trạng thái tư tưởng, chúng chỉ khác nhau là ở trạng thái vui sướng hay đau khổ, thời gian tồn tại lâu hay mau và cuối cùng đều phải quay về tái sinh ở cõi người. Cõi người là ưu việt nhất vì vừa có tấm thân xác thịt vừa có trí tuệ để thiền quán nhằm liễu thoát khỏi luân hồi sinh tử.
Sáu nẻo luân hồi
Với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhiên không cấu nhiễm quán theo khắp cùng vũ trụ, Đức Phật thấy có 6 đường (lục đạo) đưa con người ta thác sanh sau khi chết, đó là: Cõi thiên, cõi thần (Atula), người, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục. Cũng tùy mỗi người khi sống tạo nhiều nghiệp thiện hay bất thiện mà họ được hưởng hay phải chịu quả báo vào một trong sáu nẻo này.
-Những người ở cõi thiên được mô tả trong các bản kinh là thân thể họ luôn chói sáng, biến ra nhiều hình thù theo ý muốn (chúng ta lưu ý: khi con người ta còn tái sinh trong cõi người thì không phải chúng ta chỉ có một hình thù nhất định, mà theo nghiệp lực, mỗi kiếp chúng ta lại có một hình thể khác nhau, có thể kiếp trước ta cao to, kiếp này lại thấp bé, trước đen, nay trắng, là nam hay là nữ… do vậy, những người ở cõi thiên biến hình được là chuyện dễ hiểu). Họ di chuyển trong không gian bằng ý niệm và hưởng quả vị an lạc theo sở đắc của mình mà không cần đồ ăn thức uống. Họ có tuổi thọ cao nhất là 84.000 đại kiếp (một đại kiếp có 1334.240.000 năm) sau đó họ phải tái sinh trở lại làm người (cõi dục giới).
-Người ở cõi thần (Atula) cũng là những người có tâm thiện như người ở cõi thiên, nhưng trong họ hay giận dữ và vẫn còn lòng sân chưa gột rửa hết (trong kinh Bổn Sanh chuyện tiền thân của Đức Phật nhắc lại, có thời kỳ Phật là Phạm Thiên ngự ở cõi trời vô sắc giới, chỉ vì ghen tức, mà những người ở cõi thần kéo lên gây sự, tuyên chiến với người cõi thiên…). Tuổi thọ của người cõi thần ngắn hơn ở cõi thiên rất nhiều, sau đó họ cũng phải tái sinh vào dục giới trở lại làm người.
Muốn nhập vào cõi thiên hay thần sau khi chết thì khi sống thân, khẩu, ý của ta phải giữ được thập giới (10 giới).
Thân: không được sát sanh, trộm cắp, tà dâm.
Khẩu: không được nói dối, nói lời hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm.
Ý: không được tham, sân, si.
Riêng muốn vào được cõi thiên (có 16 cõi sắc giới và 4 cõi vô sắc giới) còn phải chứng đắc các tầng thiền: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, thiền Vô sở hữu xứ, thiền Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
-Tái sinh lại làm người (dục giới). Cõi người như chúng ta đã biết, hạnh phúc cũng lắm mà khổ đau cũng nhiều, chúng ta muốn tồn tại được là nhờ các nhu cầu: ăn, uống, hít thở… Nhưng ở cõi người có tính ưu việt hơn hai cõi thiên và thần vì chúng ta có trí tuệ và tấm thân sinh học, nhờ tấm thân xác thịt này cùng với trí tuệ mà ta có thể thực hiện thiền định, gột rửa chân tâm, chứng đắc tầng thiền cao nhất là Diệt thọ tưởng định để liễu thoát khỏi luân hồi sinh tử, Đức Phật cũng nhập niết bàn sau khi từ bỏ xác thân ở cõi người. Tuổi thọ ở cõi người ngắn ngủi, có thể ví như “bóng câu qua cửa sổ” vậy…
Muốn được trở lại làm người ở kiếp sau thì kiếp này ta phải giữ cho được 5 giới bồ tát đạo, đó là: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu và không được mưu sinh bằng sáu nghề sau: buôn bán người, buôn bán vũ khí, bán thịt sống hay chín, bán rượu và các chất gây nghiện, lên rừng săn bắn thú vật, chài lưới cá tôm ngoài sông, biển. Ngoài ra còn phải chịu khó làm phước bố thí, trau dồi học hỏi tri thức, sống nhân ái thì mới mong kiếp sau giàu sang, hạnh phúc, trí tuệ. 
Đối với nhà Phật, một người giàu có muốn làm phước bố thí rất dễ, dễ mà không làm là tự hại, một người nghèo muốn làm phước bố thí rất khó, khó mà làm được thì sẽ nhận quả báu lớn. Cho nên, có kẻ kiếp này làm vua nhưng có thể kiếp sau tay gậy, vai bị đi ăn mày, có kẻ kiếp này là ăn mày nhưng kiếp sau sinh ra làm hoàng tử… tất cả là do hạnh nhẫn nhục, trì giới và phước bố thí của mỗi chúng sinh.
Cõi thiên, cõi thần, cõi người Đức Phật gọi đó là ba đường lành, Ngài khuyên chúng ta khi sống phải trau dồi nhân tâm: thân, khẩu, ý, để đến khi thân hoại mạng chung mới mong có cơ may vào được… Còn ba đường dưới đây, Đức Phật gọi là ba đường dữ:
-Súc sinh. Chúng sinh ở cõi súc sinh cũng có tấm thân sinh vật như cõi người nhưng họ đần độn không có tư duy, trí tuệ. Tuy vậy, họ vẫn có chút tình cảm trong giống, loài với nhau cho nên Đức Phật gọi họ là chúng sinh hữu tình, vì không có tư duy, trí tuệ nên cuộc sống mưu sinh rất vất vả. Trong cõi này, kẻ mạnh hiếp kẻ yếu, không có sự thông cảm, yêu thương, loài này lấy loài khác làm thức ăn hoặc làm thức ăn cho con người, nên tuổi thọ nhiều khi không ở nghiệp mà do kẻ khác quyết định (nhà Phật khuyên chúng ta không sát sanh vì có thể chúng ta giết nhầm và ăn thịt những người thân trong tiền kiếp). 
Những người phải đọa vào cõi súc sinh là: khi sống họ lừa thầy phản bạn, lăng loàn dâm đãng, dửng dưng vô cảm trước đau khổ của người khác… Sau một thời gian thọ nạn ở cõi súc sinh, theo nghiệp lực, họ cũng được tái sinh trở lại làm người.
-Ngạ quỷ. Khi sống tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ chỉ lo nghĩ bản thân mình mà nhắm mắt quay lưng với tai họa của các chúng sinh thì kẻ đó dễ rơi vào đường ngạ quỷ sau khi chết - ngạ quỷ được mô tả có cái đầu to, miệng rộng, bụng lớn nhưng cổ lại bé như cây kim, ngọn cỏ - đấy là mô tả tưởng tượng của dân gian, chứ kì thực những chúng sinh ngạ quỷ luôn sống trong trạng thái đói khát, ưa thèm dục lạc thế gian, vì không có thân xác thịt để thỏa mãn nên trong họ luôn cháy bỏng khát khao những thèm muốn mà họ không có được. Họ cũng tái sinh lại làm người sau khi hết quả báo.
-Địa ngục: Là nơi chốn đau khổ dành cho hạng người làm những việc ngũ nghịch, thập ác. Trong dân gian vẽ ra những cảnh địa ngục rùng rợn, ghê gớm là có ý cảnh tỉnh chúng ta đừng làm việc ác, chứ những cảnh trừng phạt như: xẻo thịt, lột da, chặt tay chân, bỏ vạc dầu… chỉ xảy ra trên trần gian thời phong kiến xa xưa mà thôi.
Những người rơi vào địa ngục tâm thức họ phải chịu lửa cực hình dằn vặt, đau khổ mà những tội ác họ gây ra cho loài người và chúng sinh trong rất nhiều đại kiếp, chỉ khi nào họ thật lòng ăn năn, hối hận, cầu mong được chuộc tội, bởi những việc làm gây đau khổ cho người khác, chúng sinh khác thì mới mong thoát khỏi trạng thái này.
Câu chuyện sau ví dụ về một người thoát khỏi địa ngục: Có một anh chàng khi sống làm nhiều chuyện thất đức, khi chết anh ta bị đày xuống địa ngục với nhiều hình phạt đau khổ, anh ta hỏi viên phán quan khi nào mới thoát khỏi cảnh đau đớn này, phán quan trả lời: chỉ khi nào có kẻ mang tội ác như anh ta hay hơn nữa đến thế chỗ thì anh ta mới có cơ hội thoát khỏi, ngay lập tức anh ta chắp tay quỳ xuống với cảm xúc đau đớn bi mẫn trong tâm thức, cầu mong tất cả những người trên trần gian đừng ai phạm tội lỗi như anh và anh ta xin chịu tội thay cho tất cả mọi người. Kỳ lạ thay, ngay lập tức anh ta thấy mát mẻ, sảng khoái… do thoát khỏi địa ngục lúc nào mà không hay.
Tuy chỉ là câu chuyện giả tưởng nhưng nói lên một điều: khi ta rơi vào địa ngục, ta cũng phải tuyệt đối giác ngộ được những hành vi tội lỗi của mình thì mới mong có ngày thoát khỏi để tái sinh trở lại làm người.
Tóm lại, sáu nẻo luân hồi trên, chỉ có cõi người và cõi súc sinh là có tấm thân vật chất, còn cõi thiên, thần, ngạ quỷ, địa ngục chỉ là trạng thái tư tưởng, chúng chỉ khác nhau là ở trạng thái vui sướng hay đau khổ, thời gian tồn tại lâu hay mau và cuối cùng đều phải quay về tái sinh ở cõi người, cõi người là ưu việt nhất vì vừa có tấm thân xác thịt vừa có trí tuệ để thiền quán nhằm liễu thoát khỏi luân hồi sinh tử.
Với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhiên, Đức Phật quan sát thấy những nghiệp thức phải đọa vào ba đường dữ rất nhiều, nhiều như lông bò, còn những nghiệp thức được siêu thoát lên ba đường lành rất ít, ít như sừng bò. Vì vậy, Ngài khuyên chúng ta khi sống gắng gột rửa chân tâm cho thanh tịnh, luôn luôn có ý nghĩ, lời nói, việc làm lương thiện, mới mong có cơ may vào ba đường lành khi thân hoại mạng chung.
Nguyễn Minh Sơn

Linh hồn chỉ là ảo tưởng (6)

Cầu siêu cho người chết là để cho nghiệp thức dẫn họ đi đầu thai trong lục đạo chứ không phải để họ siêu thoát về “Tây thiên”, “Thiên trúc”, “Tây phương cực lạc”… đây là những cảnh giới của chư Phật, chỉ khi sống ta tu hành tinh tấn thì mới mong nhập được vào cảnh giới của chư Phật, đấy là những cảnh giới vắng lặng, thuần khiết, thanh tịnh, an lạc… làm sao có thể chứa được những thân trung ấm đầy tham lam, sân hận, si mê, ngạo mạn, nghi ngờ, tà kiến... cho được!
Cách thức ứng xử với thân trung ấm
Như trên đã phân tích, không hề có linh hồn và cảnh giới cho linh hồn trú ngụ mà chỉ có thân trung ấm của những người đã chết chờ nghiệp thức dẫn đi đầu thai trong lục đạo, còn vì sao họ bám víu vào thân trung ấm mà chưa chịu đi đầu thai là nằm một trong những lý do như đã nêu ở phần trên.
Khi chúng ta thông qua nhà ngoại cảm (chân chính, thực sự có khả năng), tiếp xúc và nói chuyện được với những người thân đã khuất như: ông bà, cha mẹ, con cháu…, thì chớ vui mừng, quyến rũ họ bằng: quần áo, nhà cửa, xe cộ, tiền bạc… và những thứ mà khi họ còn ở thế gian mang tâm yêu thích trở thành thói quen, tập khí, rồi đem “cúng tiến” cho họ trong những ngày giỗ, tết. Tuy những vật dụng trên chỉ bằng giấy màu hay vàng mã và những thân trung ấm ấy không có thân vật chất xác thịt để mà thọ dụng, họ chỉ nhận lãnh qua sự khoái cảm của tưởng tượng, nhưng làm thế là chúng ta vô tình tiếp tay cho họ đắm say dục lạc thế gian, bám víu vào tưởng thức mà không chịu để nghiệp thức dẫn đi đầu thai vào một trong những con đường tương ưng với nghiệp của họ khi sống họ đã tạo tác, điều này làm thiệt thòi và cản trở họ trong quá trình tái sinh trở lại làm người.
Cũng thông qua ngoại cảm mà ta biết người thân của mình chưa siêu thoát, còn luyến tiếc trần gian mà không theo nghiệp thức dẫn đi đầu thai trong sáu nẻo, thì tốt nhất, thân chủ nên nhờ những vị cao tăng đạt đạo cầu siêu cho những thân trung ấm ấy, phải nói thẳng với họ rằng họ đã chết, mọi dục vọng của họ chỉ là phù du, phù phiếm, giả tạo, vô thường, đừng bám chấp vào nó mà thiệt thòi trong tiến trình tái sinh. Nếu cần thì dùng bài vị, hướng họ tới một cảnh chùa nào đấy, vì ở chùa thường có sự tụng kinh niệm Phật, thuyết pháp, hồi hướng công đức, dần dần các thân trung ấm tỉnh ngộ ra mà để cho nghiệp thức dẫn vào lục đạo.
Chúng ta, những người đang sống cũng phải hiểu rằng: cầu siêu cho người chết là để cho nghiệp thức dẫn họ đi đầu thai trong lục đạo chứ không phải để họ siêu thoát về “Tây thiên”, “Thiên trúc”, “Tây phương cực lạc”… đây là những cảnh giới của chư Phật, chỉ khi sống ta tu hành tinh tấn thì mới mong nhập được vào cảnh giới của chư Phật, đấy là những cảnh giới vắng lặng, thuần khiết, thanh tịnh, an lạc… làm sao có thể chứa được những thân trung ấm đầy tham lam, sân hận, si mê, ngạo mạn, nghi ngờ, tà kiến... cho được!
Nguyễn Minh Sơn

Linh hồn chỉ là ảo tưởng (5)

...Cũng vì không có thế giới linh hồn nên nhà ngoại cảm chỉ có khả năng giao tiếp với các thân trung ấm và vì vậy, tất cả các nhà ngoại cảm đều nhầm tưởng thân trung ấm là linh hồn!
Nhà ngoại cảm với thân trung ấm
Ngoại cảm là khả năng đặc biệt của con người, những người có khả năng ngoại cảm họ có giác quan thứ sáu vượt trội hơn năm giác quan kia (thị giác, thính giác, khứu giác, xúc giác, vị giác), họ có những khả năng đặc biệt như: thần giao cách cảm, nhìn xuyên thấu, dự đoán tương lai, biết chuyện quá khứ, tác động sự vật bằng ý chí... 
Nhưng những nhà ngoại cảm không tu hành thiền định, không chứng đắc các bậc thiền như: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền… đến Diệt thọ tưởng định thiền như các vị Phật hay A-la-hán. Do vậy, họ không có khả năng giao tiếp với chúng sinh ở cõi thiên, thần, súc sinh, ngạ quỷ hay địa ngục. Cũng vì không có thế giới linh hồn nên nhà ngoại cảm chỉ có khả năng giao tiếp với các thân trung ấm và vì vậy, tất cả các nhà ngoại cảm đều nhầm tưởng thân trung ấm là linh hồn! 
Bên cạnh những người có khả năng ngoại cảm thực sự (cực kỳ ít) thì đa phần là đội lốt ngoại cảm để trục danh, trục lợi. Họ công bố có thế giới linh hồn và cảnh giới linh hồn, họ lảm nhảm những điều trong tưởng uẩn, giả lời linh hồn người chết để lừa bịp những ai không có tri thức khoa học, thiếu kiến thức về Phật giáo chân chính. Tệ hơn nữa, một đằng họ khuyên con người ta sống theo giáo lý của Đức Phật, một đằng họ công bố có linh hồn - điều mà Đức Phật đã chối bỏ, phủ nhận - vậy họ là hạng người gì? Chúng ta cần cảnh giác. 
Theo Phật giáo có trên 30 loại tưởng uẩn khác nhau như: vọng tưởng, sắc tưởng, mộng tưởng, định tưởng, tuệ tưởng, nhân điện tưởng, pháp tưởng,… Nguyên nhân những loại tưởng này xuất hiện: 
Một là: do con người luôn sống trong tâm trạng ảo tưởng, trừu tượng, cộng với niềm tin tâm linh điên rồ, mù quáng nên tưởng uẩn hoạt động như những người hành nghề đồng cô đồng cốt, thầy phù thủy, thầy pháp cầu cơ cầu hồn… (những người này chắc chắn không thể có khả năng ngoại cảm để tiếp xúc với thân trung ấm, họ chỉ nói nhảm những điều trong tưởng uẩn của họ mà thôi). 
Hai là: do bệnh tật, tai nạn, sét đánh, chó dại cắn… mà phát sinh tưởng uẩn, thường bắt gặp ở một số rất ít các nhà ngoại cảm. (Hiện nay, ở nước ta chưa có công trình mang tính khoa học, đánh giá hiện tượng ngoại cảm của những người này, nhưng khả năng phát sinh ngoại cảm ở họ là có thể. Tuy nhiên, mức độ chính xác khi tiếp xúc với thân trung ấm của họ không chắc chắn lắm và xác suất không cao, khi năng lực kích hoạt của tưởng uẩn yếu đi, thì khả năng ngoại cảm của họ cũng hết). 
Ba là: dùng tưởng được huân tập như các nhà thôi miên, nhân điện, Yoga,… (những người này cũng không có khả năng ngoại cảm, họ chỉ làm được một số trò như: đâm vật nhọn qua người, đi trên than hồng, dịch chuyển đồ vật, nhịn thở, nhịn ăn uống trong một thời gian…). 
Các loại tưởng uẩn trên không thuộc những nhà ngoại cảm có khả năng đặc biệt nhờ phát huy giác quan thứ sáu ví như nhà ngoại cảm, tiến sĩ tâm lý học Hans Holzer đã nói ở phần trên. 
Người nào luôn sống trong mê tín dị đoan, ảo tưởng, tin rằng có thể bỏ tiền bạc, vật chất ra cầu cúng, hiến tế cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã qua đời hay thần (Táo quân, thần tài, thổ công, thổ địa…), thánh (Quan Công, Bà Chúa Kho, Chúa Liễu, Chúa Xứ…), Phật (Thích Ca, A Di Đà, Di Lặc,…), Bồ tát (Bồ Tát Quán Thế Âm, Thiên Thủ Thiên Nhãn, Địa Tạng…)… sẽ được “phù hộ độ trì”. Những kẻ mê muội này là “miếng mồi ngon” cho bọn ngoại cảm rởm lừa bịp.
Nguyễn Minh Sơn

Senin, 20 Januari 2014

Linh hồn chỉ là ảo tưởng (4)

Về sự tồn tại của thân trung ấm: Theo phật giáo Đại thừa chỉ tồn tại trong khoảng 49 ngày, Thần đạo Nhật Bản là 35 ngày, theo Luận tỳ bà sa tối đa là 7 ngày… thì phải đi đầu thai. Nhưng trong thực tế, có những thân trung ấm còn hiện hữu tới vài trăm năm...
Thân trung ấm
Sau khi chết, ta rơi vào trạng thái của thân trung ấm. Thần thức của người chết thoát ra khỏi xác và sẽ trụ lại ở cảnh giới trung gian này nên gọi là thân trung ấm, nhưng vì bỏ mất thân xác thịt cho nên thân trung ấm chỉ có trạng thái tư tưởng. 
Có thể ví, thân trung ấm như là dư âm của tiếng ngân nga còn rớt lại trong thinh không sau tiếng chuông chùa, hay như một cách ví khác với một người học xong đại học đang chờ phân việc làm, có người thì đi làm ngay, có người chờ một hai năm hay lâu hơn vài ba năm… Trong quá trình thân trung ấm chờ đợi này, là để cho luật nhân quả sàng lọc từ trong mớ hỗn độn nhân thiện, ác chất chứa trong cả cuộc đời người chết ấy, tập hợp lại thành một cái nghiệp thiện hay nghiệp ác và cái nghiệp thiện hay ác này được nghiệp thức đưa đi đầu thai trong lục đạo.
Về sự tồn tại của thân trung ấm: Theo phật giáo Đại thừa chỉ tồn tại trong khoảng 49 ngày, Thần đạo Nhật Bản là 35 ngày, theo Luận tỳ bà sa tối đa là 7 ngày… thì phải đi đầu thai. Nhưng trong thực tế, có những thân trung ấm còn hiện hữu tới vài trăm năm, như trong câu truyện của nhà ngoại cảm, tiến sĩ tâm lý học Hans Holzer (Hoa Kỳ), trong cuốn “Life After Life” của ông do NXB Parker Publishing Co phát hành Năm 1985, kể lại như sau: 
Trong giấc ngủ, cô sinh viên Y khoa Pamela luôn thấy xuất hiện một cô gái mặc áo đỏ cùng các trang phục khác như thời trung cổ, hàng ngày nỗi ám ảnh về cô gái mặc áo đỏ cứ đeo đẳng trong tâm chí, đến nỗi Pamela phải viết thư cầu cứu tiến sĩ tâm lý kiêm nhà ngoại cảm Hans Holzer. Hans Holzer đã dùng thuật thôi miên đưa Pamela trôi về tiềm thức và lúc này cô gái mặc áo đỏ xuất hiện, cô nói tên cô là Rutheven, người Scotland, cô mất khoảng năm 1600 lúc mới 20 tuổi, vì thân trung ấm của cô phiêu dạt sang tận Hoa Kỳ và rồi không biết cách quay trở về, cô “nhập” vào Pamela với ý định khi Pamela đi du lịch châu Âu, theo đó cô trở về quê nhà ở Scotland, để tìm lại chiếc nhẫn cẩm thạch bị mất của vị hôn thê tặng.
Để làm cuộc điều tra, Hans holzer đã lặn lội sang Scotland truy tìm nguồn gốc của Rutheven. Và quả đúng như vậy, Rutheven là ái nữ của bá tước Gowrie sống trong lâu đài Huntingtowe thuộc dòng họ Home (1566-1613), cô bị chết khi cố nhảy qua bờ hào của hai tháp canh lâu đài. Câu truyện trên còn được lưu giữ trong cuốn sử liệu “Lâu đài Huntingtowe”…
Người chết, khi tồn tại trong trạng thái thân trung ấm còn rớt lại ba tánh: tánh thấy, tánh nghe và tánh biết. Vì còn bám chấp cuộc sống cũ, vào cái bản ngã cũ mà thân trung ấm luôn luôn muốn được trở lại và giao tiếp với những người thân thích của mình. 
Nhưng giờ đây, họ khác chúng ta ở chỗ: chúng ta còn công việc, còn giao lưu, giao tiếp, mọi tri thức thông qua các phương tiện nghe, nhìn, sách, báo… luôn được tiếp cận, do đó chúng ta luôn có nhận thức mới mẻ về thế giới khách quan. Còn họ không được như vậy, trong giai đoạn tồn tại trạng thái thân trung ấm thì ý thức để nhận biết thế giới quan của họ hầu như dừng lại, mọi nhận thức trước đó không thay đổi, họ chỉ còn mang thói quen, tập khí cũ mà không có sự khác biệt, họ vẫn hiển hiện bên chúng ta nhưng không thể giao tiếp được với chúng ta, nếu không nhờ ngoại cảm. 
Nhiều người trong chúng ta lầm tưởng thân trung ấm có thần thông, có thể “đi mây về gió” hoặc “phù hộ độ trì” cho ta khi ta cầu xin, khấn vái... Nhưng không phải vậy! Vì những thân trung ấm này không như chúng sinh ở cõi thiên hay thần (Atula) di chuyển được bằng ý niệm, không bị chi phối bởi không gian và thời gian. Lấy ví dụ: chúng ta đang sinh sống ở trong Nam mà có cha hoặc mẹ mất trên đất Bắc, đến ngày giỗ, chúng ta làm cơm canh, đốt vàng mã, cúng bái mời gọi… Chắc chắn một điều, cha hay mẹ ta còn tồn tại trong trạng thái thân trung ấm sẽ không thể vào mà “thọ hưởng” với ta được.
Điều này hiển hiện rõ nhất ở những người chiến sĩ trận vong, các nhà ngoại cảm đi tìm hài cốt thì thấy họ, bao lâu nay vẫn lẩn khuất ở chỗ họ hy sinh, nơi thân xác họ bị thời gian vùi lấp, hoặc có người vì công việc đi xa, bị chết nơi đất khách quê người, họ cũng không tự trở về nhà được, phải nhờ tới những vị cao tăng đạt đạo cầu siêu, mới gọi được thân trung ấm của họ về. Hầu như các thân trung ấm đều bám víu vào tấm thân sinh học cho dù đã bị hủy hoại, họ ít chịu rời bỏ, trừ khi được cầu siêu. 
Những trường hợp nào nhà ngoại cảm không tiếp xúc được với thân trung ấm, mời họ không lên tiếp chuyện là họ đã được nghiệp thức đưa đi đầu thai trong lục đạo, người thân nên vui mừng vì chuyện này, còn những thân trung ấm nào lên tiếp xúc, nói chuyện với nhà ngoại cảm là vấn đề đáng quan ngại… 
Điều gì đã khiến những thân trung ấm ấy không đi đầu thai theo nghiệp thức? Có thể xảy ra ở mấy lý do sau:
-Họ tưởng mình chưa chết (thường xảy ra trong trường hợp chết bất đắc kỳ tử: chết trẻ, chết đột ngột vì bạo bệnh, chết vì tai nạn đắm thuyền, xe cán, hỏa hoạn…).
-Họ luyến tiếc cuộc sống không muốn xa rời những gì mình tạo dựng cả đời như: của cải, tài sản, nhà cửa, xe cộ…
-Luyến ái với vợ, con, cháu, chắt… (chết rồi mà dạ chưa yên).
-Còn lòng sân hận ai đó, điều gì đó… (chết không nhắm mắt).
-Còn công việc dở dang chưa hoàn tất trên dương thế.
-Khi sống cùng nhau, khi chết cũng cùng nhau (cộng nghiệp) thường gặp ở những người lính tử trận.
-Nhân duyên chưa hội tụ đủ để đưa đi đầu thai.
-Nghiệp thức chưa dẫn họ đi vì lý do nào đó…(?)
Không phải khi chết ai ai cũng phải rơi vào trạng thái thân trung ấm, có hai loại người khi chết không phải trải qua giai đoạn thân trung ấm, là người cực thiện và người cực ác. 
Người cực thiện là những người tu hành đạt đến quả vị A-la-hán hay Phật, khi thân hoại mạng chung họ nhập ngay vào niết bàn, ở đó họ tồn tại trong trạng thái an lạc, hạnh phúc siêu thời gian - có thể hiểu niết bàn là trạng thái an lạc, hạnh phúc không dính mắc, người phàm phu cũng có hạnh phúc nhưng là thứ hạnh phúc dính mắc, chúng ta dính mắc vào gia đình, vợ con, danh vọng, tiền bạc, dâm dục, tham ăn, tham uống... - Còn người cực ác, khi sống họ làm những tội ngũ nghịch, thập ác, khi chết họ rơi ngay vào địa ngục, ở đó họ phải chịu thiêu đốt đau khổ trong nhiều đại kiếp (theo Phật giáo một đại kiếp có 1334.240.000 năm).
Nguyễn Minh Sơn